Vương triều Nguyễn – Vương triều cuối của chế độ phong kiến Việt Nam. Bắt đầu khi hoàng đế Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn. Và sụp đổ hoàn toàn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 – tổng cộng là 143 năm. Thống nhất đất nước, mở mang phát triển kinh tế, có những chính sách cai trị làng xã tiến bộ vượt bậc, cầu viện ngoại bang…Trải qua 13 đời vua, cho đến năm 1945, khi Hồ Chí Minh khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày 02 tháng 09 tại Hà Nội, thì Bảo Đại – Ông “vua” cuối cùng trở thành “Công dân” đầu tiên.
Tìm hiểu về thế thứ các triều chúa Nguyễn trước khi tìm hiểu về lịch sử Sài Gòn .
Vua GiaLong (1802-1819)
Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh, ngoài ra còn có tên là Chủng và Noãn. Con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (8-2-1762).
– Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng để giành lại vương quyền cho họ Nguyễn.
– Năm 1792, vua Quang Trung mất, quân Tây Sơn ngày càng yếu và quân Nguyễn ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa.
– Ngày 1-2-1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long. Chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam .
– Gia Long làm vua được 18 năm, mất vào ngày 3 tháng 2 năm 1820, hưởng thọ 58 tuổi.
– Vua Gia Long có 31 người con (13 con trai và 18 con gái)
2. Vua Minh Mạng (1820-1840)
Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên là Kiểu. Con thứ 4 của vua Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang. Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định.
– Vua Minh Mạng lên ngôi vào năm 1820, làm vua được 21 năm (1820-1840).
– Đề cao Nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước là việc được vua Minh Mạng chú trọng. Nhà vua cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kỳ thi Hội và thi Đình. (Thời Gia Long chỉ có thi Hương).
– Năm 1838, vua Minh Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam.
– Vua Minh Mạng mất ngày 20-1-1841, hưởng thọ được 50 tuổi.
– Vua Minh Mạng có 142 người con (74 con trai, 68 con gái)
3. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa.
– Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 11-2-1841, làm vua được 7 năm (1841-1847). Mất ngày 4-10-1847, hưởng thọ 41 tuổi.
– Vua Thiệu Trị có 64 người con (29 trai, 35 gái).
4. Vua Tự Đức (1848-1883)
Vua Tự Đức có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, ngoài ra còn có tên là Thì. Ông là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng (Hoàng hậu Từ Dũ). Sinh ngày 22-9-1829
– Vua Tự Đức lên ngôi năm 1847, làm vua được 36 năm (1847-1883). Mất ngày 19-7-1883, hưởng thọ 55 tuổi.
– Vua Tự Đức không con, ông nhận 3 người cháu gọi bằng chú làm con nuôi là: Nguyễn Phúc Ưng Chân (sau này là vua Dục Đức); Nguyễn Phúc Ưng Đường (sau này là vua Đồng Khánh); Nguyễn Phúc Ưng Đăng (sau này là vua Kiến Phúc).
5. Vua Dục Đức (1883, 3 ngày)
Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái. Là con thứ 2 của Thụy Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga.
– Năm 1869, lúc 17 tuổi được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên là Ưng Chân.
– Lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này. Ba ngày sau hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ Dục Đức theo lệnh của Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu (mẹ vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ vua Tự Đức).
– Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu thì Ưng Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất. Ông mất ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (24-10-1884), thọ 32 tuổi.
6. Vua Hiệp Hòa (1883, 4 tháng)
Vua Hiệp Hòa tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Thăng.C con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận.
-Vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883. Lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
-Do có ý thân Pháp, vua Hiệp Hòa lên ngôi chưa bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ. Và buộc uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29-11-1883).
7. Vua Kiến Phúc (1883-1884)
Kiến Phúc tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng. Con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ưng Đăng. Sinh ngày 12-2-1869
– Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi. Do bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.
– Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 31-7-1884 lúc mới 16 tuổi.
8. Vua Hàm Nghi (1884-1885)
Vua Hàm Nghi tên là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Minh. Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn. Sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (3-8-1871).
– Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân (2-8-1884) Ưng Lịch được lên ngôi vua. Đặt niên hiệu là Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi.
– Binh biến năm Ất Dậu (5-7-1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở. Phát hịch Cần Vương, phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 tháng 10 năm 1888, tên Trương Quang Ngọc (người hầu của vua) bị Pháp mua chuộc. Nên đem người bắt vua Hàm Nghi dâng cho Pháp.
-Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13 tháng 1 năm 1889. Nhà vua sống ở đó cho đến lúc mất (4-1-1943), thọ 72 tuổi.
9. Vua Đồng Khánh (1886-1888)
Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị, còn có tên là Đường và Biện. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Sinh ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19-2-1864). Năm 1865 lúc được 2 tuổi, Ưng Thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.
– Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở. Triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
-Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi.
Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.
Vua Đồng Khánh có 10 người con (6 trai, 4 gái).
10. Vua Thành Thái (1889-1907)
Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Chiêu. Con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu). Sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão (14-3-1879).
-Vua Đồng Khánh mất. Triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889. Với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi.
-Vua Thành Thái là người có tư tưởng tiến bộ (cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chống Pháp. Vì vậy, sau 19 năm ở ngôi, dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thoái vị. Sau đó, ông bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng Tàu. Năm 1916, ông bị Pháp đem đi đày ở đảo Réunion (Châu Phi).
-Năm 1947, ông được trở về sống ở Sài Gòn cho đến khi mất. Ông mất ngày 9 tháng 3 năm 1955, thọ 77 tuổi.
11. Vua Duy Tân (1907-1916)
Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có tên là Hoảng. Con thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định. Sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19-9-1900).
Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị. Triều đình Huế đưa Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới 8 tuổi.
– Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua Nguyễn. Tuy nhiên nhà vua lại là người chững chạc, có khí phách của một bậc đế vương. Cũng như cha mình, vua Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Nhà vua đã cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân… vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trốn ra khỏi Kinh Thành. Ba ngày sau, vua Duy Tân bị Pháp bắt và bị kết tội rồi đày sang đảo Réunion.
– Nhà vua mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25-12-1945) trong một tai nạn máy bay khi 46 tuổi. Nhà vua được an táng tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo M’Baiki, thuộc Cộng Hòa Trung Phi. Ngày 6 tháng 4 năm 1987, nhà vua được cải táng trong khuôn viên của An Lăng (Lăng Dục Đức).
12. Vua Khải Định (1916-1925)
Vua Khải Định tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Tuấn. Con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu). Sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu (8-10-1885).
– Vua Đồng Khánh mất, Hoàng tử Bửu Đảo còn ít tuổi (4 tuổi) nên không được chọn làm vua. Đến năm 1916, sau khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion. Triều đình Huế và người Pháp mới lập Bửu Đảo lên ngôi vua vào ngày 18-5-1916. Lấy niên hiệu là Khải Định.
– Vua Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (6-11-1925), thọ 41 tuổi.
Sau khi chết, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế. Vua Khải Định chỉ có một con trai là Hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại).
13. Vua Bảo Đại (1926-1945)
Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, ngoài ra còn có tên là Thiển. Ông là con độc nhất của vua Khải Định và bà Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung). Sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22-10-1913).
– Hoàng tử Vĩnh Thụy được đưa sang Pháp học lúc mới 10 tuổi. Đến khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 1 năm 1926, lấy niên hiệu Bảo Đại. Đây là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Sau đó, ông lại tiếp tục sang Pháp học cho đến 8-9-1932 mới trở về Huế.
– Vua Bảo Đại ở ngôi cho đến 30 tháng 8 năm 1945 thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn. Giao chính quyền lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
– Chế độ phong kiến chấm dứt. Bảo Đại sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó. Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại Pháp.
XEM THÊM : Tại đây
Xem cái tài liệu khác bên dưới :
1.Cố Đô Huế (Lịch sử-Cổ Tích-Thắng Cảnh )
Truy cập web http://huongdanviendulich.org để xem thêm nhiều thông tin và tài liệu thuyết minh khác.
Cảm ơn đã xem tin !