25 C
Sài Gòn
Thứ tư, Tháng tư 30, 2025
Trang chủ Blog Trang 11

TẢN MẠN ĐÔI CHÚT VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP

0

TẢN MẠN VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP

Cô giúp việc đã làm việc cho gia đình tôi liên tục 10 năm nay. Mấy hôm trước, cô ấy lần đầu tiên xin tôi cho nghỉ phép một tuần. Sau khi trở về nhà, tôi phát hiện ra cô ấy đã bọc lên chiếc sọt rác trong phòng bếp 7 chiếc túi đựng rác một cách ngay ngắn, cẩn thận.

Tôi cho rằng đây chính là đạo đức nghề nghiệp

Năm trước đến Hồ Thanh Hải du lịch, quen biết một lái xe. Chỉ có trình độ văn hóa tiểu học, nhưng mỗi ngày đều mặc áo sơ mi quần âu phẳng phiu. Hôm nào cũng đến trước 10 phút để đợi khách, ghế ngồi mỗi ngày đều được lau sạch sẽ. Trên xe luôn chuẩn bị miễn phí một số đồ như: thùng rác để đựng rác, nước khoáng, khăn ướt, chăn mỏng để ngủ, kèm theo một chiếc máy chụp hình. Lặng lẽ chụp khoảnh khắc khách đang ngắm cảnh, hoặc những cảnh vật xa xa. Lúc chia tay sẽ tặng lại cho khách.

Tôi cho rằng đây chính là đạo đức nghề nghiệp

Vì làm đồ dùng trong nhà nên tôi có quen biết một ông thợ mộc. Ông ấy kinh doanh rất lớn, làm thủ công bằng tay thì vô cùng chậm chạp. Trong suy nghĩ của mình, tôi thường hay dè bỉu chê bai những công việc mà không có tốc độ.

Mặc dù hai kiện đồ đạc mà tôi đặt mua của ông không có giá trị lắm, nhưng mà lúc đo kích thước ông đã tự mình đến. Ông nói làm như vậy là muốn “xem xem vách tường nhà của anh màu gì, dùng loại gỗ này có được hay không”. Lúc giao hàng ông ấy cũng đích thân đưa một nhân viên đến vì sợ sắp đặt không thích hợp. Ông lo lắng ngay cả vị trí mà tôi đặt có thể cũng không phù hợp với dự tính của ông. Ông vuốt ve những đầu gỗ bóng loáng trơn nhẵn với một ánh mắt tràn đầy yêu thương.

Tôi cho rằng đây chính là đạo đức nghề nghiệp

Khi học chơi tennis tại câu lạc bộ tennis có quen biết một vị huấn luyện viên. Ông thu phí hơi đắt so với một số huấn luyện viên khác, nhưng chưa bao giờ thấy ông chiếm dụng thời gian của học viên để nhận điện thoại hay gọi điện thoại, hút thuốc, uống nước, đi vệ sinh, cũng không chào mời học viên mua thẻ hội viên, thiết bị vợt. Nếu học viên hỏi ý kiến, ông sẽ đưa ra câu trả lời tường tận và chuyên nghiệp nhất.

Lý do của ông là: thứ nhất – tôi là huấn luyện viên không phải là một chuyên gia cố vấn, cũng không phải là nhân viên bán hàng, thứ hai – học viên nộp tiền đăng ký học tennis nên việc phải tận dụng tối đa thời gian trên sân tập để nâng cao trình độ kỹ năng cho học viên là đạo đức nghề nghiệp của huấn luyện viên.

Tôi cho rằng đây chính là đạo đức nghề nghiệp

Trên thân những người này có một loại tài nguyên khống chế – giống như “giương cung mà không bắn” vì vậy mà sức mạnh đó kéo dài không dứt. Đạo đức nghề nghiệp hiện nay đương nhiên trở thành một loại tài nguyên khan hiếm rồi.

Tôi thường làm việc với rất nhiều người ở tầng lớp “tinh anh của xã hội“. Tuy nhiên ngay cả trong tầng lớp này, có người “bưng bát cơm thịt lên ăn, đặt đũa xuống liền chửi thề” (ý nói một người có được cuộc sống đầy đủ nhưng vẫn luôn cảm thấy bất mãn), có người “thường đi bên bờ sông sao tránh khỏi ướt giày” (ý nói ở trong một hoàn cảnh dễ bị ảnh hưởng bởi thói quen, hay thói hư tật xấu nơi đó).

Nhưng có thể thấy, đạo đức nghề nghiệp không nhất định phụ thuộc vào trình độ giáo dục, địa vị xã hội thậm chí tầm hiểu biết của mỗi người.

Tôi thực sự bị cuốn hút bởi những người hoàn toàn tập trung tinh thần vào nghề nghiệp của mình. Cho dù nghề này là ghi dữ liệu hay là quét dọn đường phố… Họ làm điều này không vì bất kỳ ai mà bản thân mình mới là lý do lớn nhất. Không làm một cách cẩu thả, không ứng phó, không mơ hồ. Họ đem những việc bản thân mình đang làm xem như là sự kết nối giữa bản thân và thế giới.

Đây chính là đạt đến chỗ tôn nghiêm.

(Sưu tầm)

Những vị hoàng đế “con nít” của lịch sử Việt Nam

0

NHỮNG VỊ HOÀNG ĐẾ “CON NÍT” CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM

Có rất nhiều vị vua trẻ con của Việt Nam được dựng lên từ những tính toán của “người lớn” và không bao giờ nắm được quyền lực thật sự. Không ít trường hợp đã kết thúc số phận của mình một cách bi thảm. Nhẹ nhàng hơn là chìm vào sự lãng quên của lịch sử. Nhưng cũng có một số vị vua lên ngôi từ thuở ấu thơ đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong sử sách.

Kỳ 1: Những “đứa trẻ” trở thành nhà cai trị sáng suốt

Trong lịch sử Việt Nam, có một số trường hợp hiếm hoi những vị vua lên ngôi từ khi còn là trẻ con đã trưởng thành trên ngai vàng và trở thành những nhà cai trị sáng suốt, lưu tiếng thơm cho hậu thế.

Vua Lý Nhân Tông

Người đầu tiên có thể kể đến là vua Lý Nhân Tông (1066 – 1127). Vị vua thứ tư của triều Lý. Ông có tên thật là Lý Càn Đức, là con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân.

Lý Nhân Tông lên ngôi năm 1072, khi mới 6 tuổi, sau khi vua cha Lê Thánh Tông mất. Khi còn nhỏ, ông nhờ vào Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính, lại thêm sự phò tá của Thái sư Lý Đạo Thành và Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt, những nhân vật lịch sử lỗi lạc Việt Nam.

Trong thời gian trị vì của mình, Lý Nhân Tông tỏ ra là một vị vua chú trọng văn hóa, giáo dục, biệt đãi nhân tài, trọng vọng các bậc thiền sư thạc đức. Dưới triều đại của ông lần đầu tiên nước Việt tổ chức khoa thi Tam trường và lập Quốc tử giám.
Lý Nhân Tông cũng là người quan tâm đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và cải cách quan chế. Ông ra quy định cấm giết trâu bò bừa bãi và cho đắp đê chống lũ lụt, nổi tiếng nhất là đê Cơ Xá, khởi đầu cho việc đắp đê ngăn lũ ở Việt Nam, nhằm giữ cho kinh thành khỏi ngập lụt. Năm 1086, ông định lại quan chế, chia văn võ bá quan làm 9 phẩm.

Vua Lý Nhân Tông làm vua đến năm Đinh Mùi (1127) thì mất, trị vì được 55 năm (1072 – 1127), hưởng thọ 62 tuổi. Với con số này, Lý Nhân Tông là vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian ông cầm quyền, Đại Việt trở thành một quốc gia hùng mạnh trong khu vực.

Vua Trần Minh Tông

Vua Trần Minh Tông (1300-1357) tên thật là Trần Mạnh, lên ngôi lúc 14 tuổi là vị vua thứ 5 của nhà Trần. Ông là người con thứ tư của vua Trần Anh Tông và Chiêu Hiến hoàng thái hậu Trần thị (con gái Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng).

Trong 15 năm trị vì (1314-1329), Trần Minh Tông được sử sách ghi nhận là người có tính tình nhân hậu, biết trọng người tài. Nhờ biết tôn trọng kẻ sĩ nên Minh Tông đã có dưới trướng mình những hiền thần như Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An giúp. Năm 1323, ông đã cho mở khoa thi Thái học sinh chọn người có tài ra giúp nước.

Tuy nhiên, vua Trần Minh Tông cũng bị chê trách khi tin vào Trần Khắc Chung và Văn Hiến hầu nên đã giết Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn, một người có công, là ông chú ruột, đồng thời là quốc trượng (bố vợ) năm 1328. Cũng bắt đầu từ triều đại của Trần Minh Tông, họ Lê của Lê Quý Ly có cơ sở để chuyên quyền về sau.

Nhìn chung, triều đại nhà Trần dưới thời Trần Minh Tông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời vua trước đã tạo nên.

Vua Lê Thái Tông

Lê Thái Tông (1423 – 1442), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Lê. Ông tên thật là Lê Nguyên Long. Con thứ hai của vua Lê Thái Tổ và bà Cung Từ hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần.

Lê Thái Tông lên ngôi năm 1433, khi mới 11 tuổi. Dù còn ít tuổi và có sự phụ chính của công thần Lê Sát nhưng ông đã khẳng định được sự thông minh, quyết đoán, đủ bản lĩnh đối phó với những vấn đề phức tạp của triều đình.

Không lâu sau khi lên ngôi, năm 1434 vua Lê Thái Tông đã ra chiếu cho bá quan văn võ chiêu mộ hiền tài. Năm 1438 ông cho mở khoa thi vào Quốc tử giám và chỉnh đốn việc thi cử các đạo. Năm 1442, ông mở khoa thi Tiến sĩ, tạo ra tục lệ khắc tên những người thi đỗ vào bia đá ở Văn Miếu.

Ngoài chính sách giáo dục, ông còn đề xuất nhiều biện pháp kinh tế như quy định lại những cách thức tiêu dùng tiền và lụa vải ở trong nước.

Khi Lê Thái Tông đủ 15 tuổi, lẽ ra Lê Sát phải rút lui nhưng vẫn tham quyền cố vị, tỏ ra chuyên quyền. Vua bất bình đã bãi chức Lê Sát và Lê Ngân rồi hạ lệnh giết chết những người này và đích thân chấp chính. Ông đã trọng dụng các đại thần chính trực như Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt…

Vào thời vua Lê Thái Tông đất nước thịnh vượng, no ấm được ca ngợi và đã đi vào ca dao của dân tộc. Những nước lân bang, như Xiêm La, Ai Lao và Chiêm Thành đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cống.

Lê Thái Tông mất rất sớm, khi mới 20 tuổi, khi ở Lệ Chi Viên cùng Nguyễn Thị Lộ. Cái chết của ông là nguyên nhân vụ thảm án Án Lệ Chi Viên nổi tiếng, khiến Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi bị kết tội giết vua và tru di tam tộc.

Vua Lê Nhân Tông

Lê Nhân Tông (1441 – 1459), vị vua thứ ba của nhà Lê sơ tên thật là Lê Bang Cơ. Dù chỉ là con trai thứ ba, nhưng ông được vua cha Thái Tông phong làm Hoàng Thái tử vào năm 1441, khi mới vài tháng tuổi.

Năm 12 tuổi Lê Nhân Tông đã tự điều hành triều chính. Dù nhỏ tuổi nhưng ông chứng tỏ mình là vị hoàng đế anh minh, biết thương dân, sùng kính Nho giáo, xem trọng nghề nông và kính cẩn tông miếu. Ông không có thói đam mê tửu sắc, và biết tôn trọng những người có công đối với Vương triều.

Dưới triều Nhân Tông, nước Đại Việt thái bình thịnh trị, đời sống nhân dân ổn định, bờ cõi được bảo vệ và mở rộng.

Dù sáng suốt và nhân từ, nhưng vua Nhân Tông vẫn bị anh cả là Lê Nghi Dân oán hận và muốn đoạt ngôi vì ông chỉ là con thứ. Trong khi đó, Nhân Tông không đề phòng gì vì luôn coi Nghi Dân là anh ruột.

Một đêm cuối năm 1459, Nghi Dân cùng các thủ hạ đã bắc thang vào cung cấm giết vua Nhân Tông. Khi đó ông mới 18 tuổi. Cái chết của ông khiến cho quan lại “nuốt hận ngậm đau”, và thần dân “như mất cha mất mẹ”.

Những vị “hoàng đế con nít” nổi danh trong sử Việt (phần 2)

Cuộc hôn nhân giữa “nữ hoàng nhi đồng” Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, người sau đó thành “hoàng đế trẻ con” là một biến cố hi hữu trong lịch sử VN.

Kỳ 2: Cuộc chuyển giao quyền lực giữa hai “đứa trẻ”

Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất của Việt Nam

Lý Chiêu Hoàng (1218-1278), là con gái thứ hai của vua Lý Huệ Tông, tên húy là Phật Kim, sau đổi là Thiên Hinh, tước hiệu là Chiêu Thánh công chúa. Bà sinh ra trong bối cảnh triều đình nhà Lý đã rệu rã, mọi quyền hành đều rơi vào tay họ Trần mà đứng đầu là Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, một quyền thần có rất nhiều thủ đoạn chính trị.

Lý Huệ Tông không có con trai nối ngôi, lại bị họ Trần chi phối nên bất đắc chí mà chìm ngập trong rượu chè và sinh bệnh tâm thần. Sử sách ghi, có khi vua tự xưng là Thiên tướng giáng sinh, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sáng đến chiều không nghỉ

Năm 1224, Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông đi tu ở chùa Chân Giáo. Do Lý Huệ Tông không có con trai, ông phải xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Thái tử, rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo, gọi là Lý Chiêu Hoàng.

Khi mới 6 tuổi, Lý Chiêu Hoàng trở thành vị vua thứ 9 của nhà Lý, đồng thời là nữ hoàng đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Đây là trường hợp chưa từng có tiền lệ trong sử Việt.

Trước đó, do quan niệm “Nữ nhân ngoại tộc”, trong trường hợp vua không có con rtai thì sẽ nhận con cháu trong hoàng tộc để truyền ngôi chứ không bao giờ nhận con gái. Điển hình là trường hợp vua Lý Nhân Tông truyền ngôi cho Lý Thần Tông, vốn là con của Sùng Hiển Hầu, em ruột của vua.

Ngồi ở ngôi báu khi mới còn quá nhỏ tuổi, không hề có kinh nghiệm về chính trị, trên thực tế Lý Chiêu Hoàng trở thành tấm bình phong cho Trần Thủ Độ thao túng triều chính. Mặc dù trong hoàng tộc nhà Lý thời điểm đó vẫn còn những nhân vật tên tuổi như Lý Long Tường, Lý Quang Bật… nhưng thế lực của họ không mạnh để đối đầu với họ Trần.

Việc lên ngôi lạ lùng của Lý Chiêu Hoàng là khởi đầu của một màn kịch hoành tráng và độc nhất vô nhị trong lịch sử Việt Nam. Cuộc hôn nhân chính trị Trần Cảnh – Lý Chiêu Hoàng

Trần Cảnh tên thật là Trần Bồ,sinh năm 1218, là con của Trần Thừa (anh họ Trần Thủ Độ). Do dung mạo khôi ngô tuấn tú và có tư chất thông minh, Trần Cảnh đã “lọt mắt xanh” của Trần Thủ Độ. Năm 8 tuổi, ông được được đưa vào cung làm Chánh thủ hầu hạ Lý Chiêu Hoàng để phục vụ âm mưu chính trị của ông chú.

Ngay từ buổi đầu gặp gỡ, Lý Chiêu Hoàng đã tỏ ra ưa thích Trần Cảnh. Bản thân Trần Cảnh rất biết giữ lễ vua tôi, hết mực cung kính khi đối đáp và phục vụ nữ hoàng nhỏ tuổi.

Một năm sau khi Lý Chiêu Hoàng ở ngôi, Trần Thủ Độ nhận thấy thời cơ đã chín muồi. Ông thực hiện một nước cờ hiểm: thuyết phục Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh. Đến đây, âm mưu đoạt ngôi nhà Lý của Trần Thủ Độ đã được thực hiện một nửa.

Theo quan niệm truyền thống, phụ nữ đã lấy chống thì phải phục tùng chống chứ không thể đứng trên chồng. Đó là cơ sở để vị Thái sư đã ra đòn quyết định: ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Vào đầu năm 1225, Lý Chiêu Hoàng viết chiếu nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh chính thức lên ngôi vua, lấy miếu hiệu là Trần Thái Tông. Trần Thủ Độ sau đó được phong làm Thái sư – chức quan cao nhất trong triều đình phong kiến Việt Nam.

Đến đây, màn kịch chính trị mà Trần Thủ Độ làm đạo diễn, Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng là hai diễn viên chính đã diễn ra một cách hoàn hảo. Bằng mưu lược của mình, ông đã biến việc đại sự quốc gia như nhường ngôi thành chuyện vợ chồng trong nội bộ gia đình và đoạt ngôi nhà Lý một cách nhẹ nhàng.

Với sự giúp sức của Trần Thủ Độ, trong thời gian Trần Thái Tông ở ngôi, đất nước Đại Việt ngày càng trở nên hùng mạnh và thịnh vượng. Ông ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258) và làm Thái thượng hoàng cho đến khi mất (1277).

Đoạn kết cuộc tình “nữ hoàng nhi đồng” – “hoàng đế trẻ con

Dù đến với nhau như những quân cờ dưới bàn tay của Trần Thủ Độ, nhưng giữa cựu nữ hoàng Lý Chiêu Hoàng và vua trẻ tuôi Trần Thái Tông đã nảy sinh tình cảm thực sự.

Sau khi nhường ngôi cho chồng, Lý Chiêu Hoàng đã được lập làm Hoàng hậu Chiêu Thánh. Bà chung sống với Trần Thái Tông hơn 10 năm, tình cảm khá mặn nồng, được Trần Cảnh vua yêu thương hết mực.

Nhưng một lần nữa Trần Thủ Độ lại can thiệp thô bạo và làm cuộc sống của bà bị đảo lộn.

Vì lấy nhau 12 năm nhưng Hoàng hậu Chiêu Thánh không có con, Thái sư Trần Thủ Độ đã ép Trần Cảnh phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu, chị ruột Chiêu Thánh) là công chúa Thuận Thiên đương có mang 3 tháng. Chiêu Thánh bị phế bỏ ngôi vị hoàng hậu, lui về ẩn mình trong cung cấm, toan dứt nợ trần tục.

Cuộc đời chỉ tươi sáng hơn khi 20 năm sau, khi đã ở độ tuổi 40, Chiêu Thánh được vua Trần Thái Tông đem gả cho Lê Phụ Trần, một đại tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ.

Mặc dù việc làm của nhà vua bị người đời chê trách, nhưng bản thân cựu vương Lý Chiêu Hoàng đã tìm được một niềm hạnh phúc mới. Bà và Lê Phụ Trần đã có một cuộc sống yên ấm và đầy tình yêu thương. Họ đã có với nhau hai đứa con, sau này đều trở thành những người thành công trong sự nghiệp.

Lý Chiêu Hoàng mất năm 1278, khi 61 tuổi. Tương truyền ở tuổi lục tuần bà vẫn giữ được những nét xuân sắc hiếm có từ thời thiếu nữ…

Những vị “hoàng đế con nít” nổi danh trong sử Việt (phần 3)

“Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động”.

Trong giai đoạn Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, nhà Nguyễn đã có 3 vị vua yêu nước được lịch sử tôn vinh. Có một điều trùng hợp là cả ba vị vua này đều lên ngôi từ khi còn là trẻ con. Sự nghiệp yêu nước của cả ba đếu đứt gánh giữa đường và chịu cảnh đi đày nơi xa xứ…

Hàm Nghi – ông vua nhỏ tuổi hiệu triệu cả đất nước

Vua Hàm Nghi (1871 – 1943) là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn. Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Nguyễn Phúc Minh. Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn và là em ruột của Ưng Đăng (vua Kiến Phúc) và Chánh Mông – vua Đồng Khánh sau này.

Sau khi vua Tự Đức qua đời trong tình cảnh không có người nói dõi vào tháng 7/1883, các vị quan chủ chiến Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định đưa Nguyễn Phúc Ưng Lịch, khi đó mới 13 tuổi lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Hàm Nghi.

Ưng Lịch được chọn vì là một người có đủ tư cách về dòng dõi, nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn dân tộc do từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ. Và quan trọng hơn cả, do vua còn trẻ nên hai vị quan cấp tiến có thể định hướng theo đường lối kháng chiến một cách dễ dàng.

Việc vua Hàm Nghi lên ngôi khiến chính quyền bảo hộ Pháp tức giận, nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt vì sự đã rồi.

Những tháng sau đó, mối quan hệ giữa triều đình Huế và thực dân Pháp ngày càng trở nên căng thắng. Tôn Thất Thuyết quyết đinh ra tay trước để làm chủ tình hình. Đầu tháng 7/1885, ông đem quân đánh trại lính Pháp ở đồn Mang Cá. Quân Pháp nhanh chóng phản công, đánh bại quân triều đình. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi rút chạy về thành Tân Sở (Quảng Trị).

Tại Tân Sở, theo kế hoạch của lực lượng kháng chiến, vào ngày 13/7/1885 vua Hàm Nghi đã ban bố chiếu Cần Vương làm dấy lên một phong trào chống Pháp rộng khắp. Tân Sở thất thủ mấy ngày sau đó, buộc lực lượng khởi nghĩa phải rút về các vùng rừng sâu để hoạt động

Trải qua các biến cố lớn, vua Hàm Nghi dần dần nhận thức được vai trò chính trị của bản thân, không còn cảm thấy bị cưỡng ép như trước. Ông đã khẳng khái từ chối lời chiêu dụ của vua anh Đồng Khánh cũng như Paul Bert – Toàn quyền Pháp ở Đông Dương.

Do sự phản bội của của Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc, hai thành viên của đội quân kháng chiến, vua Hàm Nghi bị bắt vào đêm 26/9/1888, Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói: “Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây”. Khi đó, ông mới 17 tuổi.

Triều đình muốn đưa Hàm Nghi về Huế, nhưng người Pháp lo sợ ảnh hưởng của ông nên đã Hàm Nghi cần phải được đưa đi tĩnh dưỡng để đày ông sang xứ Algeria ở Bắc Phi.

Cựu hoàng Hàm Nghi sống tại Algeria đến cuối đời. Ông mất ngày 4/1/1943 vì ung thư dạ dày tại biệt thự Gia Long, thủ đô Alger và được chôn cất ở Sarlat, vùng Aquitaine, nước Pháp.

“Cậu bé ngỗ nghịch” ThànhThái

Vua Thành Thái (1879 – 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Nguyễn Phúc Chiêu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu).

Ngày 28/1/1889, vua Đồng Khánh lâm bệnh qua đời, con ông mới 3 tuổi nên không nối ngôi được. Nguyễn Phúc Bửu Lân trở thành người kế vị, lấy niên hiệu là Thành Thái. Khi đó ông mới 10 tuổi.

Khi mới lên ngôi, Thành Thái tỏ ra là một ông vua…ngỗ nghịch, thích chơi bời, quậy phá hơn là tham gia triều chính. Ông đã bị bắt ra quản thúc ở đảo Bồng Dinh trên hồ Tịnh Tâm một thời gian để đưa vào khuôn phép.

Khi lớn lên, vua Thành Thái ngày càng bộc lộ tinh thần dân tộc và chống Pháp. Do đọc những tân thư chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản, vua Thành Thái đã tiếp thu tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải cách.

Điều này đã dẫn vua Thành Thái đến các mối liên hệ với những người yêu nước. Có tài liệu nói ông đã toan bí mật sang Trung Quốc hoạt động, nhưng mới đi đến Thanh Hóa đã bị người Pháp ngǎn chặn. Nguồn tin khác cho rằng ông đã tạo điều kiện cho nhà cách mạng – hoàng thân Cường Để xuất dương theo Phan Bội Châu sang Nhật. Ông để còn cho cho họa sĩ Lê Vǎn Miến, người tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Paris vẽ lại các mẫu súng hiện đại của Pháp.

Đặc biệt, vua Thành Thái còn bí mật lập các đội nữ binh để che mắt Pháp. Theo một số tài liệu, ông đã chiêu nạp được 4 đội, mỗi đội 50 người, đội trước huấn luyện xong thì trở về gia đình và nạp đội mới, khi có thời cơ sẽ cùng nổi dậy chống Pháp. Nhưng sự việc cuối cùng bị lộ khi các quan trong triều báo cho người Pháp.

Người Pháp rất lo ngại tư tưởng cấp tiến của vua Thành Thái, tìm cách ngăn trở trở ông. Vào một lần nọ, Thành Thái đã giả hành động như một người mất trí để che mắt Pháp. Chính quyền thực dân lợi dụng cơ hội này vu cho ông bị điên, ép ông thoái vị, nhường ngôi cho con vì lý do sức khỏe.

Ngày 12/9/1907, ít ngày sau khi thoái vị, vua Thành Thái bị đưa đi quản thúc ở Vũng Tàu ngày nay. Đến nǎm 1916 ông bị đày ra đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân.

Đầu tháng 5/1945, cựu hoàng Thành Thái được cho về Việt Nam. Ông cùng gia đình sống ở Vũng Tàu và mất ngày 24/3/1954, thọ 75 tuổi, an táng tại khuôn viên lăng Dục Đức ở Huế.

Duy Tân – từ đứa trẻ “nhút nhát, đần độn” thành ông vua can trường

Vua Duy Tân (1900 – 1945) có tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có tên khác là Nguyễn Phúc Hoảng, là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn. Ông là con thứ 8 của vua Thành Thái và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.

Ông lên ngôi vào ngày 5/9/1907, lúc 7 tuổi, sau khi vua cha Thành Thái bị đưa đi quản thúc. Vua Thành Thái có nhiều con trai, nhưng người Pháp đã chọn Vĩnh San làm người kế vị vì ông nhỏ tuổi và trông có vẻ “nhút nhát, đần độn”.

Nhưng Duy Tân đã thay đổi hoàn toàn kể từ khi lên ngôi vua và khiến thực dân Pháp phải hối hận vì đã chọn ông.
Mặc dù còn nhỏ và bị kiểm soát bởi các đại thần thân Pháp, vua Duy Tân luôn tỏ ra là một người có tư tưởng dân tộc, quyết đoán và không chịu lệ thuộc vào Pháp.

Vào năm 1912, ông đã ra lệnh đóng cửa Hoàng thành Huế để phản đối chiến dịch vơ vét vàng của Khâm sứ Georges Marie Joseph Mahé. Toàn quyền Albert Pierre Sarraut đã phải vào Huế để giải quyết vụ việc.

Năm 1913, khi 13 tuổi, vua Duy Tân cho rằng việc thi hành hiệp ước 1884 của hai nước Việt – Pháp đã không được tuân thú và yêu cầu người sang Pháp để duyệt lại hiệp ước này. Nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi.

Năm 15 tuổi, vua Duy Tân triệu tập cả sáu đại thần trong Phụ chính, bắt buộc họ phải ký vào biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký.

Thái độ chống Pháp của ông lên đến cao điểm vào năm 1916, khi ở châu Âu đang xảy ra cuộc Đại chiến. Ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân và dự định khởi nghĩa.

Theo kế hoạch, khởi nghĩa sẽ nổ ra vào 1 giờ sáng ngày 3/5. Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội ở Quảng Ngãi là Võ An đã làm lộ tin. Cuộc khởi nghĩa không thể nổ ra như dự kiến. Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua tới vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, nhưng sáng ngày 6/5/1916 thì cả nhóm bị bắt.

Khâm sứ tại Huế và Toàn quyền Pháp thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ý. Ông đã tuyên bố: “Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp”.

Cuối cùng, vua Duy Tân bị đày đi đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương cùng với vua cha Thành Thái vào năm 1916. Tại đây, do mâu thuẫn về tính cách với cha nên ông cắt đứt liên lạc với gia đình và sinh sống như một thường dân.

Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 – 1945) vua Duy Tân gia nhập quân Đồng Minh chống phát xít Đức và được nhà lãnh đạo Charles de Gaulle của Pháp chú ý. Sau cuộc chiến, de Gaulle muốn đưa Duy Tân trở lại Đông Dương như một lá bài trong kế hoạch tái chiếm Đông Dương, trong khi ông cũng muốn lợi dụng de Gaulle để trở lại ngai vàng và từng bước củng cố độc lập dân tộc.

Nhưng kế hoạch chưa được thực hiện thì vào ngày 26/12/1945, ông tử nạn trong một vụ tai nạn máy bay ở Cộng hoà Trung Phi. Có giả thuyết cho rằng đây là âm mưu ám sát của người Anh, vì việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa.

Ngày 24/4/1987, thi hài cựu hoàng Duy Tân được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, rồi đưa về an táng tại Lăng Dục Đức, cạnh lăng mộ vua cha Thành Thái ở Huế.

(Hoàng Phương)

Xem thêm nhiều tài liệu thuyết minh khác : tại đây 

Tầm nhìn văn hóa khi chọn nơi an nghỉ của đại tướng Võ Nguyên Gíap

0

TẦM NHÌN VĂN HÓA KHI CHỌN NƠI AN NGHỈ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

Ngoài lý do về phong thủy, tâm linh, người kiến tạo lịch sử, vị tướng lẫy lừng của thế giới – Đại tướng Võ Nguyên Giáp – đã quyết định chọn vùng đất Vũng Chùa – Đảo Yến để “yên giấc ngàn thu”, hẳn sẽ còn có cả nguyên nhân chiến lược về: Quốc phòng, kinh tế, chính trị và văn hóa.

Như chúng tôi đã trao đổi ở bài trước, Vũng Chùa – Đảo Yến nằm trong Khu Công nghiệp Cảng biển Hòn La, dưới chân Đèo Ngang. Hòn La đang là cảng biển sâu, vốn được xem lý tưởng vào loại bậc nhất nước ta. Là tiềm năng kinh tế biển. Nhưng vì nhiều lý do, nơi đây vẫn chưa được đầu tư, phát triển xứng tầm.

Việc Đại tướng chọn “viên ngọc” thô này làm nơi an nghỉ, sẽ góp phần nào giúp địa phương kêu gọi đầu tư, cùng với Khu Kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế toàn khu Bắc Miền Trung vốn đang còn đói  nghèo.

Để hiểu thêm về mảnh đất này, chúng tôi đã ghé thăm nhà một số vị cao niên ở xã Quảng Đông. Ông Cao Sỹ Điều, một người sinh ra và lớn lên ở đây cho biết:

“60 năm gắn bó với vùng đất ni, tui biết rõ về nó lắm. Cái tên Vũng Chùa – Đảo Yến đã có từ lâu rồi. Khi còn bé, tui nhiều lần ra Đảo Yến. Chỗ ni có một cái hang rất to, chim yến sinh sống trong đó nhiều lắm. Đằng sau Vũng Chùa là núi. Phóng tầm mắt ra biển, Đảo Yến như một bức bình phong giữa biển. Người dân quê tui cũng thường hay ra đây, nhìn về đó chỉ thấy một đường cung giao giữa trời và đất, bao la nghìn trùng. Biển ở đây, vừa có độ sâu lý tưởng vừa có dải cát trải dài, nước sạch, trong xanh. Hồi trước, bà con quê tui sống bằng nghề thu hoạch Yến, nhưng giờ có Công ty Yến sào Khánh Hòa vô làm, dân lại quay sang nghề đánh bắt”.

Như đã biết, quê hương Lệ Thủy của Tướng Giáp – nơi có con sông Kiến Giang hiền hòa chảy qua – là một địa danh nằm cuối đất Quảng Bình từ Bắc vào Nam. Nên không phải ngẫu nhiên mà Người chọn Vũng Chùa – Đảo Yến, một điểm đầu cực bắc của tỉnh Quảng Bình để “nghỉ ngơi”. Từ nay, người từ phía Bắc muốn vào thăm cụ thì sau khi qua Đèo Ngang rẽ vào phần mộ dâng hương, cũng sẽ đi tiếp đến tận phía Nam tỉnh Quảng Bình để tham qua Khu di tích nhà ở xưa của Đại tướng.

Và ngược lại, người từ phía Nam khi ghé ra thăm Khu nhà lưu niệm ở Lệ Thủy, cũng sẽ đi tiếp đến điểm đầu của Quảng Bình để thắp nén nhang lên mộ phần của Người. Với lộ trình như vậy, đất và người Quảng Bình sẽ nhộn nhịp hơn. Nó phàn nào thúc đẩy rất lớn việc phát triển các dịch vụ du lịch trên quê nhà – nơi vốn phải trải qua nhiều thiên tai tàn khốc và mưa đạn của quân thủ. Có biển Nhật Lệ, Có Phong Nha – Kẻ Bàng, Sơn Đòong, từ nay, mảnh đất nghèo này sẽ hội tụ đủ các yếu tố để phát triển du lịch.

Cùng với việc đón nhận mộ phần của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong khu vực Hoàng Sơn – Hòn La sẽ sớm xây dựng một căn cứ quân đội (ít nhất là cấp sư đoàn) để bảo vệ vĩnh viễn lăng mộ cho Người. Có quân đội thường trực, sự trăn trở về an ninh, quốc phòng về cái điểm “tử huyệt” sẽ phần nào được hóa giải.

Một ý nghĩa nữa, khi chọn lựa nơi này của Đại tướng có liên quan đến vấn đề biển Đông – nơi tình hình chính trị – quốc phòng chưa bao giờ được chúng ta lơ là, xem nhẹ. Lăng mộ của cụ có mặt trước hướng ra biển Đông. Nhưng do đặc thù của eo biển nên từ trên tọa độ 130 của đỉnh núi Rồng, phóng tầm mắt qua Đảo Yến là chính trực hướng Đông Nam, nơi có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn đang có nhiều biến động.

Tọa lạc trên đỉnh núi Rồng (hay còn gọi là Thọ Sơn), Người như ngọn hải đăng tinh thần luôn sáng ngời để dẫn đường, nhắc nhở con cháu muôn đời sau phải có trách nhiệm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo của tổ quốc – nơi bọn ngoại xâm đang lăm le dòm ngó.

Ban đầu, theo dự kiến sẽ có 3 địa danh được các nhà khoa học, phong thủy cân nhắc để chọn an táng Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Quê nhà thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy; Phong Nha – Kẻ Bàng và Vũng Chùa – Đảo Yến. Nhưng phương án cuối cùng được lựa chọn vẫn phải là Vũng Chùa – Đảo Yến – nơi sinh thời, chính Đại tướng đã lựa chọn.

Khi biết thông tin Đại tướng sẽ an nghỉ tại núi Rồng, nhiều người dân quê nhà ở làng An Xá rất buồn, có đôi chút hụt hẫng. Rồi sau, khi biết đó là nguyện vọn cuối đời của Cụ và tâm nguyện của gia đình, mọi người đều toại nguyện, thể theo. Một người con làng An Xá phân tích: “Cụ Giáp là người đã có những quyết định mang tính lịch sử và đi đến thắng lợi. Nếu cụ đã chọn Vũng Chùa, chắc là có nguyên do đặc biệt của cụ rồi. Dẫu sao, cụ đã về được với quê hương là tốt lắm, không thể đòi hỏi hơn. Chúng tôi rất bằng lòng”.

Còn những người dân Vũng Chùa – Đảo Yến ở xã Quảng Đông (Quảng Trạch) lại rất xúc động và háo hức. Ông Phan Công, một người dân sống sát biển Vũng Chùa nói: “Tui và rất nhiều người dân quê tui khi biết tin này đều xúc động không cầm được nước mắt. Nếu đây là nơi an táng Đại tướng thì đối với người dân quê tôi, đó là một niềm tự hào lớn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng lỗi lạc, một người mà ai ai cũng kính trọng. Nếu Đại tướng về an nghĩ vĩnh hằng nơi đây, chúng tôi nguyện sẽ bảo vệ, chăm sóc mộ phần thật tốt”.

Những ngày qua, rất nhiều danh xưng đã được dùng để nói về Người. Nhưng qua sự chọn lựa điểm dừng chân cuối cùng của cuộc đời mình, Đại tướng vẫn khiến cho không ít người phải thốt lên sự “tâm phục, khẩu phục”. Vũng Chùa, Đảo Yến, Hòn La, Mũi Rồng… và nhân dân Quảng Bình đã chính thức được đón Cụ về an nghỉ. Đây sẽ là chuyến về thăm và ở lại với quê hương vĩnh hằng của Người.

Theo quan sát của phóng viên, bãi biển Vũng Chùa – Đảo Yến, dân địa phương vẫn gọi là Bãi Rõ dài hơn 1km. Khung cảnh nơi đây tuyệt đẹp với bờ cát trắng mịn màng, quanh năm không có gió to và sóng lớn. Trong cái nắng nhè nhẹ của một ngày tháng 10, những con sóng xanh biếc vỗ vào bờ mơn man, như háo hức đón cụ về nơi đây. Những con sóng, những luồng gió mát từ biển xanh ấy, từ đây sẽ vỗ về giấc ngủ ngàn thu cho Người – Vị tướng tài hoa, niềm tự hào của cả dân tộc Việt.”

Xuân Hồng – Loan Nguyễn (Báo Đời sống & pháp luật)

Các vị thân tiêu biểu trong ấn độ giáo

0

CÁC VỊ THẦN TIÊU BIỂU TRONG ẤN ĐỘ GIÁO

1. Brahma

Trong những bộ Vêđa sớm nhất có ghi về Brahma như một vị thần sáng tạo và đầy quyền năng, thống trị cả vũ trụ. Dần dần sau đó triết học Vêđa hướng đến sự diễn giải về thuyết độc thần, nói về vũ trụ và khởi nguyên của nó. Và quyền năng thiêng liêng của vị thần sáng tạo ấy dần dần được nhân cách hóa thêm. Vào thế kỷ thứ IV và thứ V sau Công nguyên, Brahma lúc ấy lại được xem là một trong ba vị có quyền năng cao tột bậc nhất trong Ấn giáo cùng với Vishnu và Shiva.

thần Brahma-huongdanviendulich.org
thần Brahma-huongdanviendulich.org

Hình ảnh Brahma thường được thấy với ba mặt và bốn tay. Mỗi tay cầm quyển kinh Vêđa, cầm bông hoa sen, cầm chùy, bắt ấn … đầu có vòng hoa và râu rậm. Khi thì cưỡi con thiên nga Hamsa (tượng trưng cho tri thức). Khi thì ngồi trên một bông sen mọc từ rốn của Vishnu. Khi thì nằm trên mình con rắn Naga nổi bồng bềnh trên đại dương nguyên thủy.

 2. Sarasvati

Là quyền năng của Brahma, cũng thường được xem là người phối ngẫu. Sarasvati vẫn còn tồn tại trong thế giới Ấn giáo ngày nay, và có tầm quan trọng còn hơn chính cả Brahma. Trong sự sùng bái thông thường, Sarasvati là biểu tượng của Thần Nữ Tri Thức và Học Vấn. Có thể nguồn gốc của Sarasvati liên hệ đến truyền tích làm khô cạn dòng sông Sarasvati ở Rajasthan. Nhưng không như Brahma, thần nữ Sarasvati vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong sự sùng bái của người Ấn giáo mãi cho đến ngày nay.

Hình ảnh Sarasvati thường thấy là màu trắng, cỡi trên lưng con thiên nga, tay cầm một cuốn sách. Sarasvati có thể được thấy với nhiều đầu và nhiều tay. Biểu tượng cho sự gia hộ tất cả các môn học về khoa học và nghệ thuật. Sarasvati được tôn sùng nhiều nhất ở các trường và đại học.

3. Vishnu

Có hình ảnh là vị thần với khuôn mặt người. 4 tay cầm 4 lệnh bài là cái tù và, cái vòng, cái búa và cánh hoa sen tượng trưng cho bốn chất tạo nên vũ trụ. Khi thì cưỡi chim thần Garuđa. Khi thì có dạng nửa người nửa chim, Khi thì nằm trên mình con rắn Naga. Năm 1000 sau Công nguyên, người ta cho rằng các truyền thuyết về 10 hóa thân của Vishnu được dựng lên.

Mười hóa thân của thần Vishnu

Tên vị thần: Matsya. Hóa thân: Cá

Truyền thuyết: Thuở xưa khi trái đất này còn bị che phủ bởi nước. Thần Vishnu đã hiện thân làm một con cá để cứu Manu (người đầu tiên).

Tên vị thần: Kurma. Hóa thân: Rùa

Truyền thuyết: Cũng vào thời nước dâng tràn ngập ấy, Vishnu hóa thân làm một con rùa lớn để vớt lấy tất cả những bảo vật bị mất trong cơn nước lũ. Trong đó kể cả nước cam lồ linh dược mà các vị thần thánh dùng để giữ sự trẻ đẹp của mình. Lúc ấy có một vị thiên nữ Lakshmi giúp đặt ngọn núi (Kailash) lên lưng rùa thần Kuma, để rùa có thể lặn sâu xuống lòng đại dương mà tìm bảo vật. Nó gặp rắn thần và rắn ấy quấn mình quanh ngọn núi. Thiên nữ bèn làm biển nổi sóng lớn, đẩy dạt ngọn núi đi và kéo theo cả rắn thần. Bấy giờ những chất cam lồ và linh dược nổi lên mặt nước cùng với các bảo vật. Sau đó thiên nữ Lakshmi trở thành vị phối ngẫu của thần Vishnu.

Tên vị thần: Vahara. Hóa thân: Heo

Truyền thuyết: Thần Vishnu lại hiện thân xuống để cứu trái đất khỏi cơn nước lũ, do sự sai khiến của quỷ vương Hiranyaksa. Câu chuyện có lẽ bắt nguồn từ huyền thoại của người Aryan về một con heo thần.

Tên vị thần: Narasimha. Hóa thân: nửa người nửa sư tử

Truyền thuyết: Quỷ vương Hyranyakasjpu đã làm cho Phạm thiên phải hứa rằng, hắn sẽ không bị giết, dù là ngày hay đêm, bởi trời, người hay thú vật. Kế đó hắn làm cho tất cả mọi người kinh sợ. Thần Vishnu vào cung điện của quỷ vào lúc chạng vạng tối. Khi ấy không phải là ngày cũng chưa phải là đêm, trong hóa thân nửa người nửa sư tử, Vishnu liền giết quỷ vương.

Tên vị thần: Vamana. Hóa thân: người lùn

Truyền thuyết: Bali, một con quỷ khác đạt được những phép tắc thần biến rất ghê sợ sau khi đã thực hành những pháp tu khổ hạnh. Để che chở cho thế giời này, thần Vishnu hiện thân ra trước quỷ trong hình dạng của một người lùn và hỏi xin hắn một ân huệ. Quỷ Bali đồng ý và Vishnu hỏi xin một khu đất lớn bằng ba bước dài. Quỷ hứa cho và khi ấy thần Vishnu bèn hiện thân thật khổng lồ, bước ba bước che khắp cả mặt đất. Không còn lại gì hết ngoại trừ địa ngục cho quỷ.

Tên vị thần: Parasurama

Truyền thuyết: Vishnu hiện thân người, làm con của một Bà la môn có tên là Jamadagni. Khi cha bị tên ác vương cướp hết của cải, Parasumara bèn đi giết tên vua gian ác này. Kế đó người con của vua lên ngôi và giết lại Jamadagni để trả thù cha mình. Parasumara bèn trả thù lại giết hết tất cả người nam trong thành.

Tên vị thần: Rama

Truyền thuyết: Vishnu hóa thân làm một vị thái tử để cứu thế giới này ra khỏi sự đen tối của quỷ vương Ravana. Câu chuyện này được kể trong Ramayana. Qua đó người ta thấy được lòng sùng tín và sự chịu đựng khổ nhọc của thái tử, cùng với lòng thủy chung của vợ là nàng Sita. Ở thiên sử thi này người ta cũng thấy được sự tạo dựng của Hanuman, khỉ thần. Một biểu tượng của sức mạnh và lòng trung thành. Hiện nay vẫn còn được xem là một vị thần linh rất được biết đến và đang còn tôn thờ ở Nepal và Ấn Độ.

Tên vị thần: Krishna. Hóa thân: có nhiều hóa thân

Truyền thuyết: Những câu chuyện về các hóa thân của Krishna đều là cứu giúp tất cả mọi người. Khi còn bé Krishna đã làm cho mọi bà mẹ yêu thương. Lớn lên trong tình yêu, Krishna đã phá vỡ những lề lối cấm đoán cổ xưa của xã hội, và đưa tình yêu lên đến tột đỉnh của những khát khao và thỏa mãn qua sự tự do và phá rào những ràng buộc của xã hội. Khi làm người đánh xe ngựa của anh hùng Arjuna trong chiến trận Kukukshetra, Krishna là người giúp tất cả những ai đến với mình và cứu họ thoát khỏi sự tái sanh vào những cảnh giới ác, nếu kẻ ấy có đủ niềm tin vào đấng thiêng liêng.

Tên vị thần: Đức Phật

Truyền thuyết: Có lẽ người Ấn lấy đức Phật đưa vào tên các vị thần trong Ấn giáo để làm mất thể diện Phật giáo, một tôn giáo rất lớn đã làm ảnh hưởng toàn vùng Nam Á Châu. Theo những sự diễn giải sớm nhất của người Ấn giáo, họ cho rằng Vishnu hóa thân làm đức Phật để tỏ lòng từ bi đối với các loài vật và cứu loài thú này khỏi những nạn chết vì tế lễ.

Tên vị thần: Kalki. Hóa thân: Cỡi trên một con ngựa.

Truyền thuyết
: Khi Vishnu đến sẽ kéo theo sự hủy diệt sau cùng của thế giới này, để phán xét những điều xấu ác, và tưởng thưởng những điều tốt.

4. Lakshmi

Người phối ngẫu của Vishnu, Nữ thần của sự thịnh vượng và may mắn. Mỗi khi Vishnu có một hóa thân, Lakshmi cũng có một hóa thân để trợ giúp chồng. Khi Vishnu hóa thân thành Vamana, Lakshmi xuất hiện từ một bông sen và có tên là Padma (hoặc Kamala). Khi Vishnu hóa thân thành Parasurama, Lakshmi hóa thân thành vợ của Parasurama là Dharani…

5. Hanuman

Là con khỉ trung thành phụ giúp Rama trong cuộc tìm kiếm nàng Sita. Hanuman được tôn thờ khá phổ biến đối với những người Ấn giáo thuộc Nam Á châu. Trong Ramayana có kể về chuyện Hanuman trở thành khỉ chúa và dẫn đàn khỉ đi tìm ở khắp Ấn Độ khi nàng Sita bị bắt cóc. Sau cùng nó đã tìm thấy nàng trong một khu rừng của quỷ vương Ravana ở Tích Lan. Qua bao cuộc chiến đấu và mưu mô, Hanuman đã cứu được công chúa Sita cho chủ mình. Bất cứ thân tướng gì mà Hanuman hiện ra, người ta đều dễ dàng nhận được vì Hanuman thường được tô điểm với màu đỏ.

6. Shiva

Được tôn thờ như là một vị thần sáng tạo lẫn hủy diệt, có đầy đủ sức mạnh và quyền năng đối với vũ trụ này. Thần Shiva ngự trên núi Kailasa với vợ là nàng Parvati, và hai con là thần đầu voi Ganesha và thần Chiến tranh Kartikkeya. Shiva thường được thấy đi cùng với chiếc cỗ xe bò. Shiva thường ít được thấy hơn là thần Vishnu nhưng trong các chân dung và điêu khắc thì có nhiều. Shiva cũng được họa theo hình một vị tu khổ hạnh, ngồi thiền định trên đỉnh núi Kailash cùng với vợ là nàng Parvati. Ngài thường cưỡi con bò thần Nandin. Thần Shiva có nhiều vợ như Parvati, Uma, Durga, Kali, Shakti v. v…

Trong thờ cúng Shiva thường được đồng nhất với Linga:

Thờ sinh thực khí (Linga và Yoni) là tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Càng nông nghiệp điển hình bao nhiêu thì tín ngưỡng này càng mạnh bấy nhiêu. Người du mục không có truyền thống thờ sinh thực khí. Chiếc Linga là biểu tượng được cách điệu hóa của sinh thực khí nam trong tín ngưỡng phồn thực mang ý nghĩa phồn thực và tính dục. Kinh Vêđa nói rằng những kẻ lấy Linga làm thượng đế là kẻ thù của đạo giáo Aryen.

Ở Ấn Độ, việc thờ Linga vốn là tín ngưỡng của thổ dân Dravidien. Đó chính là tục thờ cúng các hòn đá hình trục, phổ biến trong dân gian từ thời thượng cổ ở khắp vùng Đông Nam Á. Sự xâm nhập của nó vào Bàlamôn giáo và việc đồng nhất Linga với Shiva chắc hẳn đã xảy ra vào thời kì hậu Vêđa.

Chiếc Linga trong Bàlamôn giáo

Phần hình vuông (âm tính) ở dưới ứng với thần Brahma sáng tạo. Khúc hình bát giác ở giữa mang tính chuyển tiếp, ứng với thần Vishnu bảo tồn. Còn phần hình trụ tròn (dương tính) ở trên ứng với thần Shiva phá hủy. Phần dưới của Linga gắn liền với một cái đế, giống như một cái chậu vuông, có rãnh thoát nước, biểu tượng của bộ phận sinh dục của nữ giới (Yoni). Bộ phận hình chậu vuông này còn là biểu tượng của nữ thần phù hộ cho đất đai, luôn phải nhờ ơn mưa móc của Linga.

Ngoài ý nghĩa là biểu tượng của sự sinh dục, Linga còn là biểu tượng của chiếc cột trụ chống đỡ vũ trụ, của ngọn núi Meru thần thoại (núi thiêng Meru – nơi ngự trị của Thiên thần, Bồ Tát và là trung tâm của vũ trụ theo thế giới quan của Ấn Độ). Cuối cùng, Linga còn là biểu tượng của sự vĩnh cửu và tính chất chính thống của mỗi triều đại vua. Cũng bởi những ý nghĩa tượng trưng đó, mà chiếc Linga luôn luôn có mặt trong các biểu hiện nghệ thuật có ảnh hưởng của Ấn Độ giáo.

Các nhà nghiên cứu đưa ra một số giải thích, dựa trên tài liệu của giáo sư Lê Xuân Khoa: 

Theo đó, tuy thần Shiva là thần hủy diệt, nhưng chính do hủy diệt mới xuất hiện sự sống mới. Vì vậy với tư cách là nguyên lý của sáng tạo, Shiva còn được xem là vị thần gieo rắc mầm sống và phúc lành. Với quyền năng thứ hai đó, Shiva đã đón đầu con rắn thần Vasuki khi rắn này trườn xuống muốn nhả độc tiêu diệt hết thế gian. Rồi Shiva nuốt chửng rắn, trừ tai họa cho loài người.

Mặt khác, giáo sư Lê Xuân Khoa dẫn các pho sách xưa của Ấn Độ chép rằng: “Khi Shiva và vợ giao hợp, tia lửa lạc thú xuất hiện và vũ trụ phát sinh từ tình yêu ấy. Và Ngài (Shiva) tự phân làm hai nửa, một âm và một dương, âm dương giao hòa, tạo thành vũ trụ”. Vì thế có môn phái thờ thần Shiva lưỡng tính dưới hình ảnh Linga đặt trên Yoni. Theo thần thoại nguyên thuỷ, hình thức khởi đầu của Shiva là cột lửa hình Linga.

7. Ganesha

Ganesha là một trong những vị thần được biết đến nhiều nhất trong Ấn Độ giáo. Có nhiều giai thoại về gốc tích của vị thần toàn năng này.

– Ganesha là vị thần tùy hành của thần Shiva trên núi Kailasa. Do thần Shiva sáng tạo ra từ ngọn lửa thần trên trán của mình biến thành.

– Ganesha do vợ của Shiva – bà Parvati – sáng tạo ra. Do có sự cố nên cái đầu rụng mất. Thần Vishnu thương hại chắp cho một cái đầu voi, cho nên thần được thể hiện mình người đầu voi.


– Ganesha là con của Shiva và Parvati. Trong một lần tức giận Shiva đã chặt rụng đầu của Ganesha. Do thấy vợ là Parvati khóc thương thảm thiết nên Shiva ra lệnh cho người hầu ra ngoài tìm một cái đầu về trong vòng một ngày. Nhưng đoàn người hầu đi từ sáng sớm đến chiều tối chỉ tìm thấy một con voi. Họ bèn chặt đầu con voi đó dâng lên cho Shiva. Shiva liền gắn đầu voi vào thân Ganesha. Từ đó thần Ganesha có hình dáng mình người đầu voi.

Thần có nhiều tài năng, dập tắt mọi trở ngại khó khăn, có quyền ban mọi điều tốt lành, thần bảo vệ bếp lửa. Thần là hiện thân của thông minh và trí tuệ của thần Shiva. Thần Ganesha được hiển thị với hình ảnh thân người đầu voi và hình ảnh này đã được tôn thờ ở khắp Nepal lẫn ở Ấn Độ.

Trong những cuộc họp mặt, tổ chức hoặc những lúc gia đình tụ hội về, người ta thường bắt đầu bằng những bài kinh cầu nguyện đến thần Ganesha. Và cũng trong các cuộc làm ăn, mở tiệm hoặc khánh thành một cơ sở nào, người ta cũng cho rằng sẽ không thành tựu nếu không có những buổi lễ cầu nguyện thần Ganesha. Vào dịp lễ đăng quang của nhà vua Nepal, ông cũng đến đền thờ thần Ganesha ở công trường Dubar tại Kathmandu để đảnh lễ và cầu nguyện thần Ganesha.

Ngày giáng sinh có từ đâu và ý nghĩa ngày giáng sinh

0

Cứ đến Giáng sinh thì mọi người lại náo nức cùng nhau đón lễ và dự những bữa tiệc đầm ấm bên gia đình. Vậy nguồn gốc ngày lễ này bắt đầu từ đâu?

LỄ GIÁNG SINH LÀ GÌ? 

Lễ Giáng Sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel hay Christmas là một ngày lễ kỷ niệm Chúa Giê-su sinh ra đời. Theo phần lớn các tín hữu Kitô giáo, họ tin là Chúa Giêsu được sinh tại Bethlehem (Bêlem) thuộc xứ Judea (Giuđêa) nước Do Thái (ngày nay là 1 thành phố của Palestine), lúc bấy giờ thuộc Đế quốc La Mã, khoảng giữa năm 7 TCN và năm 2.

Ngày lễ được cử hành chính thức vào ngày 25 tháng 12 nhưng thường được mừng từ tối ngày 24 tháng 12. Bởi theo lịch Do Thái, thời điểm tính bắt đầu một ngày là lúc hoàng hôn chứ không phải nửa đêm. Lễ chính thức ngày 25 tháng 12 được gọi là “lễ chính ngày”. Còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là “lễ vọng” và thường thu hút nhiều người tham dự hơn.

Nhiều giáo hội Chính Thống giáo Đông phương như ở Nga, Gruzia vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này. Cho nên lễ Giáng sinh của họ ứng với ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory (còn gọi là tây lịch hay Công lịch). Theo lịch phụng vụ Công giáo, trước lễ Giáng sinh là 4 tuần Mùa Vọng, và sau lễ Giáng sinh là Mùa Giáng sinh (12 ngày mùa Giáng sinh).

Lễ Giáng sinh là của những người theo đạo Kitô giáo, nhằm kỷ niệm ngày sinh ra của người lãnh đạo tôn giáo mình. Người mà họ cho là Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng dần dần, theo thời gian và qua các lễ hội của phương Tây, người ta tổ chức lễ Giáng sinh ngày càng linh đình. Kết quả là bây giờ, lễ Giáng sinh được xem là một ngày lễ quốc tế, với ông già Noel, cây Giáng sinh và cây thông Noel.

LỊCH SỬ RA ĐỜI NGÀY LỄ GIÁNG SINH

Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2,3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào ngày 25 tháng 12.

Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật. Vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ. Bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.

Những người La Mã, hàng năm ăn mừng “Thần Mặt trời” (Feast of The SolInvictus) đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người cơ đốc đã nhân cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại (Gioan 8:12) cùng một ngày với ngày lễ “Thần Mặt trời” của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.

Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng “Thần Mặt trời” và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Đức Jesus.

Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với đông chí ở Bắc bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.

Ý NGHĨA CỦA TÊN GỌI CHRISTMAS

Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ (bắt nguồn và được viết trong tiếng Hy Lạp là “Χριστός” (Khrīstos)) là tước vị của Đức Giêsu (nghĩa là Đấng được xức dầu). Chữ Mas nghĩa là thánh lễ. Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu. Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos, Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas.

Ý NGHĨA CỦA TÊN GỌI NOEL

Noel (phiên âm tiếng Việt gọi là Nô-en) là từ tiếng Pháp Noël, dạng cổ hơn là Naël, có gốc từ tiếng Latinh nātālis (diēs) có nghĩa là “(ngày) sinh”. Cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Noel xuất phát từ tước hiệu Emmanuel. Tiếng Hebrew nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, như được chép trong sách Phúc âm Matthew.

Ý NGHĨA CỦA NGÀY LỄ GIÁNG SINH

Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chuá, Noel là một ngày lễ gia đình. Một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình.

Đến ngày lễ thì mọi người cùng nhau dự bữa ăn chung vui bên gia đình bè bạn, không ngủ để cùng nhau vui chơi ca hát, nghe kể chuyện và quây quần bên lò sưởi và cây thông Noel. Và trẻ em trong gia đình rất yêu thích ngày lễ này vì tất cả mọi điều ước của chúng trong ngày này sẽ trở thành sự thật và được nhận quà từ ông già Noel đáng mến.

Ngày Noel cũng là một thông điệp của hoà bình: ” Vinh danh Thượng Đế trên cao – Bình an cho người dưới thế ”: Đây là câu được hát bởi những thiên thần báo tin sự xuất hiện của vị cứu thế và Noël cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu…

Ý NGHĨA CỦA CÁC BIỂU TƯỢNG GIÁNG SINH

HANG ĐÁ

Thường là vào mùa Giáng sinh, một máng cỏ được đặt trong hang đá (hay gỗ) được dựng lên trong nhà hay ngoài trời, với các hình tượng Chúa Giê-su, Mẹ Maria, thánh cả Thánh Giuse (Joseph), xung quanh là các thiên sứ, mục đồng cùng các gia súc như bò, lừa để kể lại sự tích Chúa ra đời trong máng cỏ.

THIỆP GIÁNG SINH 

Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole (1808 – 1882), một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ John Callcott Horsley (1817 – 1903), một họa sĩ ở Luân Đôn, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản.

Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kỳ người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.

VÒNG LÁ MÙA VỌNG

Vòng lá mùa Vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy, trong 4 tuần Mùa Vọng. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí – dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữuLutheran ở Đức vào năm 1839 với 24 cây nến gồm 20 nến đỏ và 4 nến trắng, cứ mỗi ngày gần Giáng sinh được đốt thêm một cây nến.

Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách sự sống vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hy vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím – màu của Mùa Vọng, cây thứ 4 là màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng . Hoặc 4 cây nến đỏ, cứ mỗi tuần mùa Vọng đốt 1 cây nến. Ngoài ra, tại phương Tây, thường có một lịch mùa Vọng là một lịch đặc biệt được sử dụng để đếm hoặc kỷ niệm những ngày chờ đợi đến lễ Giáng sinh.

QUÀ GIÁNG SINH

Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người. Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba nhà thông thái (hay nhà chiêm tinh, theo truyền thống cũng là ba vị vua) từ phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình.

Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng có ý nói Chúa Giêsu là vua, nhũ hương để tuyên xưng Giêsu là Thiên Chúa và mộc dược tiên báo cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.

Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giêsu hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra. Theo truyền thuyết xưa, Ông già Noel thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông Giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc bít tất.

Ngoài ra, ngày nay ở Việt Nam thì Giáng sinh cũng là dịp để các bạn trẻ có cơ hội gửi cho nhau những món quà, những bó hoa tươi và lời chúc tốt đẹp đến người thân và bạn bè.

NGÔI SAO GIÁNG SINH

Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rực rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.

Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì trên trời xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua.

Từ đó, ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được hang đá thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các phẩm vật trầm hương và vàng bạc châu báu. Ngôi sao trở thành biểu trưng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên.

CÂY THÔNG GIÁNG SINH  

Cây Giáng Sinh là cây xanh thường là cây thông được trang hoàng để trình bày trong dịp lễ Giáng sinh theo phong tục của người Kitô.

CHỢ GIÁNG SINH

Chợ Giáng sinh là một chợ đường phố kiểu truyền thống được tổ chức vào dịp Giáng sinh (thường bắt đầu khoảng 1 tháng trước Lễ Giáng sinh) có nguồn gốc tại vùng đất ngày nay là nước Đức và Đông Bắc nước Pháp. Bắt đầu xuất hiện từ cuối thời Thời kỳ Trung Cổ (khoảng thế kỷ 14), cho đến nay chợ Giáng sinh vẫn là nét văn hóa truyền thống đặc sắc của Đức, Áo và Đông bắc Pháp trong dịp Giáng sinh cũng như được phổ biến đến nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Chúc Bạn có một mùa giáng sinh ấm áp!

Theo wikicachlam

Cây me trong tâm thức văn hóa của người chăm

0

CÂY ME TRONG TÂM THỨC VĂN HÓA CỦA NGƯỜI CHĂM

Vâng. Văn hóa Chăm là một hệ thống đồ sộ liên quan đến những sản phẩm có giá trị cả về vật chất và tinh thần của người Chăm. Nên không thể bằng một quyển sách, một bài viết mà ta hiểu hết được về văn hóa của một dân tộc được. 

Trong du lịch, nếu là hướng dẫn viên phương Nam thì chắc chắn dân tộc Chăm là dân tộc bạn sẽ gặp nhiều nhất trong số các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đâu đó tôi từng nghe một vài lời đồn về cây me trong văn hóa của người Chăm được một số anh em truyền tai nhau để giải thích cho khách. Tôi không bác bỏ cũng không điều chỉnh mà chỉ hệ thống và định vị lại để chúng ta hiểu chuẩn xác nhất về cây me trong tâm thức của người Chăm như thế nào. 

Ai bác bỏ triết học duy vật thì kệ họ, nhưng chúng ta không thể bác bỏ hoàn toàn lý thuyết vật chất. Vật chất quyết định ý thức và các quy luật duy vật biện chứng. Trong văn hóa cũng vậy, người nghiên cứu văn hóa cũng căn cứ trên điều kiện vật chất để tính toán con đường vận động của một thành tố văn hóa, thậm chí là của một nền văn hóa. Cho nên, điều kiện vật chất là cái quan trọng của việc hình thành văn hóa. Và trong văn hóa học, điều kiện tự nhiên quy định rất rõ ràng các thành tố văn hóa được tạo ra.

Cho nên: Người Chăm cũng vậy. Họ được tạo ra trong lịch sử bởi một hệ thống văn hóa riêng biệt và có sự liên quan mật thiết đến những cộng đồng khác nhau. Trong bài này chỉ bàn về vị thế của cây me trong tiềm thức của người Chăm. 

Người Chăm, là một dân tộc phổ quát và đa số trong vương quốc liên bang Champa ngày xưa. Và đã có thời kỳ phát triển rực rỡ để biến Champa thành một đế chế mà đến mức Angkor cũng phải kiêng nể vài phần. Nhưng trải dài theo hàng loạt dữ kiện lịch sử, đến bây giờ, họ là một trong 54 dân tộc anh em Việt Nam chúng ta, và định cư tập trung từ Nam Trung Bộ về đến Nam Bộ. Việc phân chia người Chăm theo nhiều hướng khác nhau nhằm làm sáng tỏ nhiều mục đích khác nhau của người nghiên cứu.

Trong bài mạn bàn này, tôi chỉ dừng lại việc phân chia theo khu vực và chọn Chăm Phan Rang – tức Chăm Panduranga làm đối tượng để làm nổi bật lên vấn đề mà thôi. 

Tôi nghe đâu đó anh em từng đồn đoán rằng, người Chăm trông nhiều cây me là vì họ sợ ma ở và cú đậu.

 Ừ cũng đúng. Cây me có lẽ là loài cây khá quen thuộc với người Chăm Paduranga, còn hơn cả cây tagalau. Và cũng như cây Campa của Chăm vùng Indrapura và Amaravati xa xưa kia. Ngày xưa, đi khắp các ngỏ ngách của các palei Chăm, đi đâu cũng thấy cây me cả. Urang Chăm trồng me ở mọi nơi. Họ trồng trong sân nhà, trồng ngoài đồng thổ để làm ranh giới phân biệt đất nhà này với đất nhà kia, trong bên các giếng Chăm (Bingun), rồi trồng làm hàng rào, bờ giậu, đến nỗi trên tháp Chăm họ cũng trồng. 

Theo truyền thống văn hóa Chăm, người Chăm quan niệm rằng những cây lá to và tàn rộng là những nơi mà ma quỷ thường thích trú ngụ, nên bản thân người Chăm không trồng những cây tán rộng và lá dày bao giờ. Đó là chuyện của truyền thống, cái gì mà không biến đổi. Ngày nay, tôi đi các palei Chăm để thăm viếng, để ăn nhậu và vui chơi cùng các bạn Chăm. Thi thoảng tôi vẫn thấy những cây tán rộng trong nhà Chăm bây giờ, nhưng đấy cũng chỉ là số ít, họ vẫn thích me và me. 

Hỏi ra thì các cụ già bảo vì me tán nhỏ, ma quỷ không ở. Vâng, con người ta càng muốn níu giữ một thành tố văn hóa nào đó để nó không rơi vào dĩ vãng, con người ta thường chọn thần thánh hóa nó, hoặc tâm linh hóa nó lên để nó còn mãi với thời gian. Nhưng thật ra, đó là cách giải thích ngô nghê của những người nông dân chân chất, hiền hòa và họ ít học khoa học hiện đại, họ sẽ đi giải thích như thế. Tôi biết cách giải thích ấy là mê tín nhưng tôi vẫn vui mừng, vì nhờ tâm linh hóa cây me, mà đến ngày nay, cây me vẫn chưa triệt sản với thời gian.

Và tôi hạnh phúc khi các cụ già người Chăm đã giải thích theo hướng như thế, chỉ có cách đó mới bảo tồn được me mà thôi, và dù cách ấy chỉ là vô tình và ngô nghê, nhưng nó vẫn để cho cây me còn mãi với thời gian, để những di sản đi theo cây me vẫn mãi còn. 

Thế vì sao người Chăm lại trồng nhiều cây me đến thế nhỉ? 

Ừ, đơn giản, cái khí hậu vùng Panduranga nó bắt buộc phải trồng cây me. Đơn giản là như thế. Ở cái xứ hạn hán ấy, trông cây gì cũng cần nước, và cây gì cũng khó sống được. Chỉ có cây xương rồng là không trồng mà hắn cũng cứ mọc phà phà. Không liên quan, gai xương rồng chích nhức lắm đấy bạn. Tôi bị đâm một lần mà cương mủ đến đi cà nhắc mấy hôm đấy. Cái xứ lạ kỳ, toàn loài đau đớn và chua cay. Nó cũng giống lịch sử của người Chăm bạn nhỉ. Hì hì. Cây me là loài cây chịu hạn rất tốt bạn ạ, không cần tưới nước đâu nó cũng phát triển được. 

Trồng cây me để lấy bóng mát là trước tiên. Vì nó sống được trên đất hạn mà, phải trồng nó thôi. Và từ cái bóng cây đó, me cho lá, cho quả, và những di sản theo cây me lại làm nên một bản sắc văn hóa của Chăm đấy bạn ạ. Cây mẹ ngó vậy chứ nó quan trọng trong tâm thức của người Chăm lắm bạn à. 

Năm nào mà mưa nhiều, năm đó lá me ít chua. Năm nào mưa ít, lá me vàng và ít xanh hơn thì năm đó lá me chua hơn và ăn sẽ ngon hớn. 

Có nghĩa là cây me có vị chua nha, và ẩm thực chua là ẩm thực đặc trưng của vùng nóng. Đấy bạn thấy môi trường tự nhiên quy định văn hóa chứ. Giống như miền tây, ăn canh chua hoài luôn, lúc nào cũng ăn lẩu chua, nhớ không? 

Xứ nóng ăn chua vì vị chua sẽ làm mát cơ thể, giúp thanh nhiệt, giảm mỡ và phù hợp với khí hậu địa phương. Người Chăm cũng đâu có khác biệt đâu,. Họ cũng ở vùng nóng, họ ăn nhiều khẩu vị chua là đúng rồi, chua thì lấy gì giờ? Xứ này không nhiều lá giang đâu nè, xứ này đến lá khế cũng cháy chứ đừng nói là trái khế. À há, vậy thì lá me kia kìa, đầy các ngỏ ngạch kia kìa. Đấy, me từ việc che bóng mát chuyển vào góp phần tạo nên ẩm thực hằng ngày của người Chăm rồi đó. Quan trọng là nếu không vì công dụng ẩm thực này, và không vì câu chuyện cây me quỷ không ở, chắc đã xa rồi cái thời những bóng me. 

Vậy me đóng góp gì cho ẩm thực Chăm đây ta? 

Người Chăm, tôi phải công nhận họ là bậc thầy trong việc khai thác lá và trái me trong ẩm thực. Nhiều bạn đọc đến đây, sẽ nói “thằng này lại quăng bom” chứ gì. Bởi cây me có gì xa la với người Việt đâu. Người Việt cũng làm khối món từ me đấy, lá me nấu chua canh, rồi trái me chín ăn tươi, trái me sống hoặc nấu chua hoặc là là làm me chua ngâm đường. Ngày tết ăn thì thôi ngon bá cháy, rồi làm mứt me, me rim, me ngào ớt… Đúng rồi, vấn đề là người Việt ta làm được những món đấy thì nghĩ là nhiều.

Không phải đâu, người Chăm làm được mấy món đó hết, thậm chí làm ngon hơn nữa kìa. Và vấn đề là ngoài những món đó được làm từ me, người Chăm còn làm được nhiều món hơn người Việt. Thế chẳng phải họ là bậc thầy à. Công nhận nha. Không công nhận thì mình thuyết phục bạn phải công nhận những món ăn từ cây me nha .

Người Việt mình làm được mắm me, người Chăm cũng làm được mắm me. Nhưng người Việt lấy trái me chua nấu nước cho nó chua thiệt là chua rôi trộn với mắm, thêm gia vị là thành mắm me. Người Chăm chơi khác hơn, lạ hơn, làm mắm me từ trái me là thường quá. Chờ chút, tôi chạy ra đầu nhà bứt vài cái đọt me đem vô giã nhuyễn rồi thêm gia vị, là có món mắm đọt me ngon thánh thần. Ngon lắm bạn ạ, món ấy ăn mùa nào cũng ngon, ăn với cái gì cũng ngon, thề đấy. Và bạn hãy nhớ cái đọt me rất dễ tìm trong làng Chăm. Và những đọt me non luôn được quan tâm hàng đầu trong văn hóa ẩm thực Chăm nha ^*^ 

Bạn thấy canh chua nấu cá đúng không. Chăm cũng biết làm món đó, mà quan trọng hơn là cá mà họ đem kho chua nữa kìa. Ừ, người Việt mình cũng có, nhưng mình lấy cá kho khóm, còn Chăm kho với me bạn ạ. Chuẩn luôn, ngoài đó làm gì có khóm mà kho, và thể là trái me lại chui vào nồi kho của Chăm. Và từ đây, tầm quan trọng của me lại tăng lên trong tâm thức của người Chăm. 

Có ai từng đi offline câu lạc bộ HDV năm 2014 chắc còn nhớ mình ăn món canh dê chứ. Cái món canh mà nhà anh Ngà nấu đãi mình ấy. Mình cá là bây giờ người ta đã quên tên món ấy rồi. Mình nhớ có bạn còn kêu món đó là cháo nữa mới buồn. 
Không phải, đó là canh, gọi là Canh Aia kanut (món canh được nấu bằng những động vật 4 chân, hiểu nôm na vậy đi). Ngoài ra, người Chăm cũng có một món canh nữa, và nấu bằng động vật có 2 chân gọi là canh Aia raneng. 

Để nhắc cho anh chị em nhớ lại cái món mà hồi mình ăn đó. Khi nấu món đó, người Chăm lấy gạo ngon đem rang lên cho có mùi thơm, sau đó đem đi giã cho nó nhuyễn nhuyễn thành bột. Khi nấu canh, để cho nó sôi lên, thịt chín rồi, nghe mùi thơm rồi thì nêm nếm gia vị vừa ăn. Vấn đề là phải thêm mấy lá me non cho nó nổi lềnh bềnh trên nồi canh thid aia kanut mới gọi là ngon.

Canh ngon là canh dẽo dẽo keo keo (do có bột gạo mà), ngon là khi dê không bị dai, và ngon là đang ăn mà bị bà cậu đồ hốt phải một lá me non đang bơi tung tăng trong chén canh là ta nói nó chua lên tận mang tai, nước miếng nó trào ra và khi đó vị giác ta mới tiếp tục thăng hoa và thưởng thức được canh chứ.

Đấy, canh này một vài bạn đi off đợt đó kêu là cháo. Mà nếu như bạn nghĩ là cháo thì bạn có thấy nó đặc biệt không, cháo gì mà lại nêm lá me chua hả trời. Chỉ có Chăm mới làm điều đó mà thôi, vấn đề là nó ngon mới chịu chứ. 

Nếu bạn mà để ý, hoặc bạn về làng Chăm chơi vài tuần, vài tháng, vài năm. Chăm mà đã thương bạn rồi, quý bạn rồi thì Chăm sẽ đãi bạn hàng trăm món ngon xứ Chăm luôn, và nó “ngon thánh ngon thần”, thật sự vậy. Và khi đó bạn sẽ để ý người Chăm lúc nào cũng ăn mắm me (món mắm me giống người Việt) và nấu món gì cũng có vị của me trong đó, không ít thì nhiều. Phải rồi, xứ nóng thì ta phải ăn me, thế thôi. Hehe.

Cây me trong tâm thức của người Chăm nó gắn liền từ thưở vừa lọt lòng mẹ cho đến khi về với chuyến đi buôn tiếp theo. 
Khi còn nhỏ, các em bé Chăm chơi đùa những trò chơi truyền thống dưới những tán me. Me có trái già rồi chín lại là món ăn chơi của các em bé thơ hay trốn mẹ đi chơi những trưa oi ả. Đôi ta yêu nhau ngồi dưới bóng me và ước mơ về những đứa trẻ. Rồi chết đi cũng thấy cây me ngoài nghĩa trang của Chăm. Rồi lá me non, trái me non, trái me già, trái me chín lại vào bữa ăn hằng ngày của người Chăm. Nào là món canh, món cháo, món kho, món xào, rồi món mắm nêm cũng có me trong đấy luôn. 

Vậy nên ta mới nói, cây me trong tâm thức của người Chăm là một thành tố văn hóa truyền thống không thể tách rời và xóa bỏ được bạn à.  Còn có bạn nói trồng cây me để không cho cú đậu, không phải, người Chăm không sợ cú như người Việt chúng ta đâu. Trong thần phả Bà-la-môn có vị thần lá hóa thân của con chim cú đó bạn. 

Nguồn: FB – Đoàn Vũ Thanh Hoàng

Xem thêm nhiều tài liệu thuyết minh khác : tại đây 

 

Miền tây là nơi có những ngôi nhà nhỏ, cây cầu lớn

0

MIỀN TÂY LÀ NƠI CÓ NHỮNG NGÔI NHÀ NHỎ, CÂY CẦU LỚN

Nếu Tây Bắc hút hồn bởi những ruộng bậc thang, Tây Nguyên là những con đèo, Đà Lạt – hoa – những ngôi nhà xinh đẹp -Duyên hải miền trung – cát trắng, biển xanh thì miền Tây đẹp trong mắt tôi bởi tình người và những món ăn cực cực kì ngon.

Độc hành 13 tỉnh miền Tây – 4 ngày 3 đêm – 1056km – 1tr156k

SG – Long An – Tiền Giang – Đồng Tháp- An Giang- Kiên Giang- Cà Mau- Bạc Liêu – Sóc Trăng- Hậu Giang- Bến Tre – Cần Thơ- Trà Vinh – Vĩnh Long.

Chuẩn bị :  Chụp lại giấy tờ tùy thân gửi vào mail, viết số điện thoại má mì bỏ vào ví – ba lô, đặt số điện thoại má làm nền điện thoại.

Trang phục:
+ 1 áo khoác, 1 áo dài, 2 áo thun, 2 quần lửng, 2 quần jeans dài, 2 tất chân… 1 số cái linh tinh ko cần nói ai cũng biết.
+ Khăn rằn, khăn mặt, khăn đa năng, khăn choàng lớn, găng tay cụt ngón, găng tay chống nắng, áo phản quang, túi bao tử.
+1 đôi giầy thể thao 1 dép Lào 15K^^ ( càng nhỏ, nhẹ càng tốt)
+ Nón 3/4, fullface, giáp bảo hộ, bộ sửa xe.

Đồ dùng cá nhân:
+ Bàn chải, kem./sữa rửa mặt, sữa tắm, dầu gội, dao nhỏ, bật lửa, khăn giấy, tăm bông.
+ 2 balo : 1 để quần áo , đồ ăn và 1 để vật dụng thiết yếu, 5 túi nilon .
+ Thuốc : sốt, cảm cúm, đi …, gạc, băng dán cá nhân, dầu gió.
+ 2 áo mưa ( bộ – mảnh), túi nilon lớn.
+ …
Nước: 1 chai nước suối, 1 chai nước đá – redbull

Xe: bảo dưỡng trước khi đi, đổ đầy xăng, dán vài miếng decal phản quang^^, 1 chai coca xăng treo lủng lẳng.

Ngày 1 : SG – Long An – Tiền Giang – Đồng Tháp- An Giang- Kiên Giang

Xuất phát từ SG 6h sáng với anh da đen mới được đầu tư mấy cái đồ chơi nhỏ nhỏ: đèn c6, passing, trợ lực tay ga… xăng đầy bình, redbull đầy chai^^.

Chú ý đoạn ngang qua Bình Chánh đường hẹp, xe đông, có chốt bắt xe theo hứng.

Nghỉ chân ăn nui ở Bình Chánh 20k ( lòng – xương – thịt lẫn lộn).

Hồi này mình bào khá nhanh đến chân cầu Mỹ Thuận có dừng chân uống nước bị dụ mua nem Lai Vung (trước đây có ăn 1 lần, bây giờ thử lại hương vị vẫn như ngày đầu : NGỌT quá).

– Để đến được Châu Đốc phải đi qua phà Vàm Cống. So với Phà Cát Lái hay Bình Khánh thì đi phà ở đây quá khỏe: không phải xếp hàng dài đợi, không chen chúc. Có điều là trên đó không có phao cứu sinh (biết là phà không chìm đâu nhưng vẫn ớn ớn).

– Dừng chân ở Châu Đốc ăn cơm canh chua cá hú, thịt kho tiêu, sâm lạnh ( ngon).

– Đi chợ Châu Đốc, chợ ở núi Sam mua ít đồ. Ở đây khá nhiều phụ kiện giá mềm cho dân phượt bụi: balo rằn ri, võng, áo rằn ri các kiểu…

– Thằng tiến xuống An Giang theo đường Tri Tôn (có một con đường khách đi ven biên giới cảnh đẹp hơn, xa hơn. Bác nào xuống Hà Tiên thì nên đi đường này). Quay lại đường Tri Tôn thì nó chạy ngang qua núi Cấm (đẹp, leo khoảng 2h, nhìn được toàn cảnh lúa xanh, cò trắng ở An Giang). Dừng chân uống nước thốt nốt dưới gốc cây thốt nốt.

– Mùa này ven đường có bán đậu nành luộc sẵn, các bác thử đi! Béo béo, bùi bùi…ngon.

– Lúc qua vòng xoay đang hứng kéo ga thì mình gặp đụn cát thế là xòe. Người vẫn nguyên vẹn, móp giáp tí thôi… chỉ tội anh da đen bị vênh cổ với trầy từa lưa.

….Tua nhanh đến Kiên Giang nhé 

Trong lúc đang google map bối rối tìm chỗ ở thì mình tình cờ được một bạn cũng hay đi phượt. Bắt chuyện và nhờ bạn ấy giúp đỡ tìm phòng ở đường Nguyễn Văn Cừ (150k/ đêm có nước nóng , máy lạnh, wifi…). Ăn kem dừa ở quán cf du thuyền (view đẹp cả tối lẫn ngày, đồ ăn, uống rẻ 20-30k). Ăn tối ở lẩu dê 5 Minh đường Phạm Hùng theo lời bạn thổ địa thì chỗ này lẩu ngon nhất Rạch Giá (lẩu nhỏ 150, lẩu lớn 200…b Bao no, bao ngon nhớ thêm bộ óc heo 30k nhé… Tớ thích thế). Ra quảng trường hóng gió, nhìn người ta hẹn hò, muốn thì ăn sữa chua bịch cho bớt buồn nè.

À, ở Kiên Giang hồi này đang hot mấy cái hòn đảo ở Hà Tiên. Ai có thời gian thì nhớ ghé..

Ngày 2:  Kiên Giang – Cà Mau

Đây là cung đường nhiều cảm xúc nhất mình từng đi. Theo đường xuyên Á – tốc độ cho phép là 80km^^ . Ban đầu mình định vào rừng U Minh chơi, câu cá nhưng đến khi nhìn thấy con đường rải sỏi – nhìn lại cái lốp xe thì… thôi Cà Mau thẳng tiến.

– Mình có ghé quán bánh xèo Cúc ở QL63. Hơi bị choáng vì kích thước của bánh xèo miền Tây. Như 1 thói quen ở SG bước vào quán kêu món: Cô cho con 4 cái bánh xèo nhé. Cô chủ nhìn mình sửng sốt ” Hả? mình con ăn 4 cái á”. Mình nhìn vào trong chảo cười cười ” á không cô cho con trước 1 cái nha”.

Bánh xèo miền Tây khổng lồ có củ hũ dừa ngọt ngọt thay giá đỗ. Không có bánh tráng cuốn mà mình sẽ cuốn bằng rau – nhiều rau lần đầu trong đời được thấy ^^ . Vừa ăn vừa ngắm thuyền bè chạy qua chạy lại, cá dưới chân bơi tung tăng.

Chạy tiếp sau khi qua 1 cây cầu lớn thì gặp nguyên con đường bán thơm, dừa. À có 1 loại dừa không phải dừa dứa mà là dừa trồng chung dứa. Theo lời cô bán thơm thì đây là CÔNG NGHỆ MỚI mà đúng là hay thật. Dừa ngọt, thơm ngọt, to hơn bình thường nhiềuuu.

– Về miền Tây đi qua nhiều cánh đồng lúa mình có thấy cái cào để cào cỏ trong lúa ngày bé từng thấy giờ 15 năm rồi mới gặp lại.

– Nói về con đường xuyên Á nối Kiên Giang – Cà Mau. Đường mới làm, đẹp ngang Bàu Trắng. Mặt đường mịn tha hồ kéo vì dân cư vắng đồng nghĩa với ít cây xăng, tiệm sửa xe… Bác nào hỏng hay hết xăng là dắt phê luôn. Tuy nhiên thì hơi nhiều cây cầu đọc tên cười lăn lóc: Xẻo bướm, Chệch la… haha

– Bắt đầu đường vào mũi Cà Mau, suốt chặng đường từ Năm Căn vào cực Nam không có 1 cây xăng. Nếu không muốn offroad 10km đường đang làm thì tới ngã 3 khu du lịch Nam Long rẽ trái chạy đường vòng (có it ổ gà, ổ voi nhưng không sao). Lúc này mình đi trời đã về chiều đường vắng khá là lo lắng mà cứ buồn cười cái vụ chạy qua tụi nhỏ vẫn vẫy siêu nhân siêu nhân, gao đen kìa. Có lúc hỏi đường bé đang chăn bò, bé bảo chế chạy thẳng đến cầu rẽ trái từ đây đến cầu khoảng 10m và thực tế là mình chạy tiếp 8km, haha.

– Mình phát hiện googlemap không có tác dụng ở đây. Google miệng vui hơn vì người miền Tây dễ thương lắm hỏi là được chỉ nhiệt tình.

– Đến cổng vào mũi Cà Mau lúc 6h tối. Trên đường đi để ý không có cái hotel nào, đêm này chắc toi rồi. Gặp anh bảo vệ, mua vé hỏi chỗ nghỉ chân thì anh chỉ vào nhà anh luôn. Mẹ anh cũng chịu bảo vào đây đêm ngủ với cô cho vui. Đang phấn khích nên mình chạy vèo ra chụp hoàng hôn rồi về (ở đây có 1 cô…không được bình thường. Người quấn đầy áo mưa… Tui đã hét lên vì giật mình).

– Nghỉ chân ở nhà cô Nên – gay chỗ bàn bảo vệ được trải nghiệm cảm giác tắm tiên giữa rừng tràm hahaa vừa tắm vừa đập muỗi, vừa ăn cơm vừa đập muỗi.

– Trong lúc mình đang lúi húi gấp đồ thì cô đi mua thêm ít đồ ăn. 2 cô cháu cùng nấu nói chung bữa cơm đơn giản nhưng mình thấy cảm động thật sự. Đêm ngủ cùng cô nghe tiếng muỗi vo ve, tắc kè kêu … yêu người miền Tây mất rồi.

Ngày 3: Cà Mau – Bạc Liêu – Sóc Trăng – Hậu Giang – Cần Thơ

– Sáng dậy sớm xách ly cf sữa ra mũi CM chơi đi dọc con đường ven biển. Mặt trời bắt đầu nhô lên từ mặt biển tuyệt lắm, chạm tay vào con thuyền ghi mốc tọa độ. Cột mốc quốc gia …cảm giác nó….muốn khóc huhu.

– Tạm biệt mọi người về ôm cô hẹn ngày trở lại, hồi tối, sáng có ngồi nói chuyện với các cô chú ở xung quanh thấy ai cũng tò mò về SG về chuyến đi, bộ giáp của mình^^.

– Ở đây mỗi nhà đều có 1 cây sào gỗ phơi cá khô nhìn hay lắm. Trong lúc vừa chạy vừa ngó mình bị sụt hố làm gẫy cái pat đèn c6. Vào tiệm tạp hóa mua xăng, hỏi mua băng dính. Chú không có rồi cái chú chạy khắp nhà xung quanh đó hỏi giúp…( rớt nước mắt tập 2).

Vào đây chơi mọi người nhớ dự trữ xăng / đổ đầy bình vì giá xăng hộ dân bán lẻ khá mắc (phải thông cảm vì chặng đường vào xa xôi lắm).

Tạm biệt đất mũi hẹn ngày trở lại…

– Tiếp tục di chuyển qua Bạc Liêu – Sóc Trăng – Hậu Giang – Cần Thơ

Nếu muốn đi nhanh hãy đi QL1A

Nếu muốn trải nghiệm hãy đi quốc lộ Phụng Hiệp. Dọc đường quá trời đặc sản: bắp, tôm, cua , ghẹ, sò, vẹm có chế biễn sẵn (luộc thôi) giá rẻ bèo.

Mình có ghé vườn mua trái mít Tố nữ to bằng bắp chân 10k. Bên trong có 4 múi haha. Vào vườn hái quýt ngọt 10k 1 trái, chôm chôm 8k 1 kí, sầu riêng 20k, bánh Pía, lạp xưởng chiên …. Hời ơi tui đi để ăn mà.

– Hậu Giang có cái trường đại học to như cái cung điện ấy…. quên tên rồi.

Đến TP Cần Thơ ngố ngố lon ton vào quận Ninh Kiều kiếm phòng có khác gì ở Sg ra quận 1 thuê khách sạn… Giá mắc cắt cổ khuyến cáo bà con ra khu ngòai cầu Cần thơ, hoặc quận Cái Răng nhé…

Mình kiếm được phòng 2 người 180k ở 1 mình cũng 180k … Lúc này ước gì tui có .. à mà thôi.

Thay đồ xong đi lang thang ăn hàng tối ở CT yên bình quá. Mình ăn đủ thứ: ốc, hột vịt lộ, bò lá lốt, xúc xích, gỏi cuốn….  đồ ăn rẻ bèo. Mưa nên chạy lòng vòng ra bến Ninh Kiều rồi về phòng ngủ.

Ngày 4:

– Sáng 5h dậy ra bến đò cách nhà nghỉ 200m leo xuống thuyền đi thăm chợ nổi Cái Răng. Vụ này hay lắm ở mỗi thuyền có treo 1 cái cây gọi là cây bẹo bán gì treo cái đó….

– Trưa trưa trả phòng chạy về Vĩnh Long đường về đi ql1a. Ôi nó chán kinh khủng cảnh không đẹp, đường bụi, nhiều xe lớn. Mình lại mua đồ ăn vặt Củ ấu sừng trâu, bánh tráng Long An, trưa ăn cơm ở Tiền Giang no bể bụng…. Dọc ven ql1a rất nhiều quán, nếu không muốn ăn xong tính tiền bị ngất thì nhớ hỏi giá trước…

Tổng kết

– Về miền Tây trước hết phuộc xe phải hoạt động tốt 1000km mà phải đến 400, 500 cái cầu thậm chí là hơn trước khi gần đến – qua cầu có cái gờ lệch mặt đường nên bụng đói chạy xe ruột gan lộn tùm lum luôn, buồn ngủ qua chỗ này dễ mất tay lái nữa.

– Người miền Tây theo mình quan sát thì phụ nữ thích mặc đồ bộ vải thun màu xanh lá, cam đỏ… Hihi mấy tỉnh style giống nhau hết. Khoác chống nắng bằng áo sơ mi..

– Đường ở trong các vùng sâu sâu 1 tí hơi bé, đổ xi măng trắng đêm chạy xe không sáng là dễ lọt kênh nha^^

– Nếu về đây nhớ kem chống muỗi, dép Lào, áo mưa bộ. Vì gần như chiều nào cũng mưa hết. Nếu có thể thì đem bếp ga mini, hoặc bếp cồn đi. Vì hải sản, đồ tươi sống bán đầy đường … hứng lên chế biến tại chỗ nhậu luôn.

– Mình phát hiện googlemap không có tác dụng nhiều ở đây. Google miệng vui hơn vì người miền Tây dễ thương lắm hỏi là được cô chú chỉ nhiệt tình.

– Muốn bào nhanh thì đi ql1a, muốn trải nghiệm hãy chọn con đường khác:)

Yêu miền Tây mất rồi – hẹn ngày không xa sẽ trở lại.

P/s : tâm sự của P Nguyễn Thị Lan Anh

260 từ ngữ thông dụng của dân Sài Gòn và người miền Nam

0

Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Saigon, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghe thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo ke” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều đó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. Chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những MC như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà chúng ta đã từng nghe trên các Video chương trình ca nhạc, kể chuyện,…

Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Saigon miền Nam nếu dùng google dịch thì “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua) nó dịch ra như vầy “through through through through this gaping expression too”. Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu thua, hay như câu “giỏi dữ hôn” thì google dịch cũng ngất ngư con lạc đà…

Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng miền Nam thì nhiều vô kể, ví dụ: Khi nghe ai nói chuyện lập đi lập lại mà không chán thì người nghe ca một đoạn: “Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi: “Đêm nay ai đưa em về!”, người ngoại quốc ai không biết còn tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình. Như khi nghe ai nói chuyện mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt.

Thật ra không phải người Saigon ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình-dân mới dám xài. Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn, ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Saigon dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Gameshow chỉ còn nghe giọng miền Nam với câu nói: “Mời anh trả lời ạ”, “các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ… ạ… cái gì cũng ạ… làm mình thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xem phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghe thấy nó lạ lạ làm sao đâu á…

Tò tí te chút, mong rằng các bạn khi đọc những từ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Saigon một thời thương nhớ!

Tổng hợp 260 từ ngữ thông dụng của dân Saigon xưa nói riêng & người miền Nam ngày nay nói chung!

  1. À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)
    2. Áo thun ba lá, áo ba lỗ = Áo may ô
    3. Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
    4. Âm binh = phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách)
    5. Bà chằn lửa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)
    6. Ba ke, Ba xạo
    7. Bá Láp Bá Xàm
    8. Bá chấy bù chét
    9. Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)
    + Bà quại = bà ngoại
    10. Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường
    11. Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)
    12. Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi
    13. Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn
    14. Bất thình lình = đột ngột
    15. Bẹo = chưng ra (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)
    16. Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên
    17. Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể
    18. Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)
    19. Biết đâu nà, biết đâu nè = biết đâu đấy
    20. Biệt tung biệt tích = không thấy hiện diện
    21. Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo
    22. Bình thủy = phích nước
    23. Bình-dân = bình thường
    24. Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)
    25. Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)
    26. Bỏ thí = bỏ
    27. Bùng binh = vòng xoay
    28. Bội phần = gấp nhiều lần
    29. Buồn xo = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? )
    30. Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)
    31. Cà chớn cà cháo = không ra gì
    32. Cà chớn chống xâm lăng – Cù lần ra khói lửa.
    33. Cà kê dê ngỗng = dài dòng.
    34. Cà Na Xí Muội
    + Cà rá = chiếc nhẫn
    35. Cà nhỗng = rảnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhỗng tối ngày)
    36. Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang
    37. Cà rem = kem
    38. Cà rịt cà tang = chậm chạp.
    39. Cà tàng = bình thường, quê mùa,…
    40. Cái thằng trời đánh thánh đâm
    41. Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây
    Coi được hông?
    42. Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)
    43. Cụng = chạm
    44. Cứng đầu cứng cổ
    45. Chà bá , tổ chảng, chà bá lửa = to lớn, bự
    46. Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi ( Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi! )
    47. Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)
    48. Chả = không ( Nói chả hiểu gì hết trơn hết trọi á!)
    + Chả = thằng chả / thằng cha kia
    49. Chậm lụt = chậm chạp, khờ
    50. Chém vè (dè)= trốn
    51. Chén = bát
    52. Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên
    53. Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không
    54. Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó).
    55. Chiên = rán
    56. Chịu = thích, ưa, đồng ý ( Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)
    57. Chỏ = xía, xen vào chuyện người khác
    58. Chổ làm, Sở làm = hãng, xưởng, cơ quan công tác
    59. Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt
    60. Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chổ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chổ dậy?)
    61. Chưn = chân
    62. Chưng ra = trưng bày
    63. Có chi hông? = có chuyện gì không?
    64. Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ
    Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)
    65. Dấm da dấm dẳng
    66. Dây = không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó
    67. Dễ tào = dễ sợ
    68. Dì ghẻ = mẹ kế
    69. Dĩa = Đĩa
    70. Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)
    71. Diễu dỡ = làm trò
    72. Dỏm (dởm), dỏm đời, dỏm thúi, đồ lô (sau 1975, khi hàng hóa bị làm giả nhiều, người mua hàng nhầm hàng giả thì gọi là hàng dởm, đồ “lô” từ chữ local=nội địa)
    73. Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)
    74. Du ngoạn = tham quan
    75. Dù = Ô
    76. Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”)
    77. Dùng dằng = ương bướng
    78. Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn )
    79. Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)
    80. Dzừa dzừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá
    81. Đá cá lăn dưa = lưu manh
    82. Đa đi hia = đi chỗ khác.
    83. Đài phát thanh = đài tiếng nói
    84. Đàng = đường
    85. Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)
    86. Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen
    + Đền = bồi thường
    87. Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9
    88. Đi bang bang = đi nghênh ngang
    89. Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí
    90. Đó = đấy , nó nói đó = nó nói đấy
    91. Đồ già dịch = chê người mất nết
    92. Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông 93. nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo
    94. Đờn = đàn
    95. Đùm xe = Mai-ơ
    96. Được hem (hôn/hơm) ? = được không ? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm
    97. Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê
    98. Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê
    99. Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích
    100. Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc!)
    101. Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp
    102. Hay như = hoặc là
    103. Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn
    Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)
    104. Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á! )
    105. Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa
    106. Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay
    107. Hổng có chi! = không sao đâu
    108. Hổng chịu đâu
    109. Hổng thích à nhen!
    110. Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài
    111. Hợp gu = cùng sở thích
    112. Ì xèo = tùm lum, …
    113. năn nỉ ỉ ôi
    114. Kẻo = coi chừng
    115. Kể cho nghe nè! = nói cho nghe
    116. Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,….
    Lanh chanh
    117. Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm
    118. Làm (mần) dzậy coi được hông?
    119. Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh
    120. Làm gì mà toành hoanh hết zậy
    121. Làm nư = lì lợm
    122. Làm um lên: làm lớn chuyện
    123. Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu
    124. Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chổ nào)
    125. Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)
    126. Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)
    127. Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)
    128. Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
    129. Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
    130. Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!
    131. Liệu = tính toán
    132. Liệu hồn = coi chừng
    133. Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)
    134. Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)
    135. Lộn xộn = làm rối
    136. Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)
    137. Lùm xùm = rối rắm,
    138. Lụt đục = không hòa thuận (gia đình nó lụt đục quài)
    139. Má = Mẹ
    140. Ma lanh, Ma le
    141. Mã tà = cảnh sát
    142. Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa
    143. Mari sến = sến cải lương
    144. Mát trời ông địa = thoải mái
    145. Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ
    146. Mắc cười = buồn cười
    147. Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt.
    148. Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm
    149. Mần ăn = làm ăn
    150. Mần chi = làm gì
    151. Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa)
    152. Mét = mách
    153. Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10.
    154. Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên)
    155. Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò
    156. Mồ tổ! = câu cảm thán
    157. Mả = Mồ
    158. Muỗng = Thìa, Môi
    159. Mút mùa lệ thủy = mất tiêu
    160. Nam Tàu Bắc Đẩu
    161. Nào giờ = từ trước tới nay
    162. Niềng xe = vành xe
    163. Ngang tàng = bất cần đời
    164. Nghen, hén, hen, nhen
    165. Ngoại quốc = nước ngoài
    166. Ngon bà cố = thiệt là ngon
    167. Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)
    168. Ngồi chồm hổm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp)
    169. Ngủ nghê
    170. Nhan nhản = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt
    171. Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi
    172. Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia
    173. Nhiều chiện = nhiều chuyện
    174. Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau
    175. Nhóc, đầy nhóc : nhiều
    176. Nhột = buồn
    177. Nhựt = Nhật
    178. Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm
    179. Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)
    180. Phi cơ, máy bay = tàu bay
    181. Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,
    182. Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình
    183. Qua bên bển, vô trong trỏng, đi ra ngoải,
    184. Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! )
    185. Quá xá quà xa = quá nhiều
    186. Quê một cục
    187. Quê xệ
    188. Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hổng rành đường 189; này nhen, tui hổng rành (biết) nhen)
    190. Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)
    191. Rân trời = um sùm
    192. Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng
    193. Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả
    194. Ruột xe = xăm
    195. Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!
    196. Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng
    197. Sạp = quầy hàng
    198. Sến = cải lương
    200. Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà.
    201. Sên xe = xích
    202. Sếp phơ = Tài xế
    203. Sườn xe = khung xe
    204. Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ
    205. Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi
    206. Tàng tàng = bình dân
    207. Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… 208. chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn
    209. Tàu hủ = đậu phụ
    210. Tầm xàm bá láp
    211. Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi
    212. Té (gốc từ miền Trung)= Ngã
    213. Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư
    214. Tía, Ba = Cha
    215. Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …!
    216. Tòn teng = đong đưa, đu đưa
    217. Tổ cha, thằng chết bầm
    218. Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)
    219. Tới chỉ = cuối
    220. Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính
    221. Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi ( trong đó tui = tôi )
    222. Tui, qua = tôi
    223. Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó
    224. Tức cành hông = tức dữ lắm
    225. Tháng mười mưa thúi đất
    226. Thắng = phanh
    227. Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ
    228. Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói
    230. Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm)
    231. Thèo lẽo = mách lẻo ( Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó! )
    232. Thềm ba, hàng ba
    233. Thí = cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!)
    234. Thí dụ = ví dụ
    235. Thiệt hôn? = thật không?
    236. Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột
    237. Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó
    238. Thôi hén!
    239. Thơm = dứa, khóm
    230. Thúi = hôi thối
    231. Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác
    232. Trà = Chè
    233. Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%)
    234. Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm)
    235. Trực thăng = máy bay lên thẳng
    236. Um xùm
    237. Ứa gan
    238. Ứa gan = chướng mắt
    239. Vè xe = chắn bùn xe
    240. Vỏ xe = lốp
    241. Xả láng, sáng về sớm,
    242. Xà lỏn, quần cụt = quần đùi
    243. Xài = dùng, sử dụng
    244. Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu
    245. Xe cam nhông = xe tải
    246. Xe hơi = Ô tô con
    247. Xe nhà binh = xe quân đội
    248. Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)
    249. Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)
    250. Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)
    251. Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)
    252. Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh
    253. Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)
    254. Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ
    255. Xía = chen vô (Xí! Cứ xía dô chiện tui hoài nghen! )
    256. Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)
    257. Xiết = nổi ( chịu hết xiết = chịu hổng nổi = không chịu được)
    258. Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy”
    259. Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên)
    260. Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa )
Nguyễn Cao Trường & Tony – Sài Gòn trước 1975

 

10 pho tượng Phật to nhất thế giới

0

Các công trình kiến trúc Phật giáo không chỉ là di sản của nhân loại mà còn là những địa danh du lịch tâm linh thu hút hàng triệu du khách thập phương mỗi năm.

Dưới đây là 10 kiến trúc Phật giáo được tạp chí trực tuyến Touropia bình chọn và giới thiệu

1. Tượng Đại Phật ở Lạc Sơn (Leshan), Tứ Xuyên, Trung Quốc

Tượng Phật Leshan Giant Buddha hay Đại tượng Phật Lạc Sơn là bức tượng khổng lồ chạm khắc trực tiếp vào quả núi đá vĩ đại ở tỉnh Tứ Xuyên, miền Tây Trung Quốc.
Tượng mô tả Phật Di Lặc (Maitreya hay Bodi Sattra) ở tư thế ngồi có chiều cao 71m, riêng các ngón tay có độ dài tới 3m. Tượng Đại Phật ở Lạc Sơn được xem là bức tượng Phật vĩ đại nhất khắc trong núi đá của nhân loại hiện nay.

2. Tượng Phật Emerald Buddha, Thái Lan

Đây là bức tượng khoác y phục bằng vàng đặt trong chùa Wat Phra Kaew (Chùa Phật Ngọc), trong khuôn viên Hoàng gia Grand Palace của Thái Lan. Bức tượng nổi tiếng bởi nó được chế tác từ đá ngọc xanh nguyên khối. Tượng có 3 bộ y phục bằng vàng được nhà vua Thái Lan thay vào các dịp lễ hội theo quy định.

3. Đại tượng Phật Daibutsu – Nhật Bản

Kotoku-in là ngôi chùa Phật nổi tiếng của trường phái Jodo Shu Sect (Tịnh Thổ Tông) ở thành phố Kamakura (Nhật Bản). Trong đó có bức tượng phật Daibutsu ngồi, cao 13m, nặng 93 tấn bằng đồng rỗng. Nguyên thủy, tượng được đặt trong chùa bằng gỗ. Tuy nhiên ngôi chùa đã bị sóng thần phá hủy hồi TK 15 và để lại bức tượng tại vị trí vốn có.

4. Bức tượng Phật nằm – chùa Wat Pho, Bangkok Thái Lan

Là kiến trúc Phật giáo nổi tiếng ở chùa Wat Pho, Bangkok (Thái Lan). Bức tượng nằm nghiêng dài 46m, cao 15m. Đôi mắt và bàn chân được trang trí ngọc trai thể hiện 108 đức tính cao quý của Đức Phật.

5. Tượng Phật Ushiku Daibutsu – Ushiku, Nhật Bản

Ushiku Daibutsu (Tượng phật Di Đà) tọa lạc tại thành phố Ushiku, Nhật Bản là một trong những ngôi tượng Phật cao nhất thế giới hiện nay, cao 120m, kể cả bệ 10m, đài sen 10m. Công trình chính thức được hoàn thành vào năm 1995. Nó được xem là điểm đến du lịch tâm linh, thực hành tín ngưỡng nổi tiếng thế giới hiện nay.

6. Tượng Gia Vihare – Sri Lanka

Đây là kiến trúc Phật giáo nổi tiếng thế giới được xây dựng tại Polonnaruwa, một trong những cái nôi của Phật giáo thế giới ở Sri Lanka. Tiêu điểm của ngôi chùa này là 4 bức tượng Phật được chạm khắc vào tảng đá granit khổng lồ. Trong số này có bức tượng nằm nghiêng dài tới 14m và một bức khác dựng đứng cao 7m.

7. Đầu tượng Phật ở Ayutthaya – Thái Lan

Cố đô Ayutthaya của Thái Lan được xem là quê hương của những tác phẩm tôn giáo rất đặc biệt, nhất là tượng Phật. Trong những di tích còn sót lại có chùa Wat Mahathat (Chùa Đại Di tích). Nơi lưu phần đầu của một bức tượng Phật làm từ đá sa thạch, phần còn lại của tượng đã bị thất lạc. Đặc biệt, chiếc đầu tượng Phật này nằm kẹt trong rễ và dây leo của một cây cổ thụ.

8. Tượng Monywa Buddhas – Myanmar

Monywa là thành phố sầm uất ở miền Trung Myanmar nằm bên bờ sông Chindwin hùng vĩ. Nhưng ở đây còn nổi tiếng hơn bởi bức tượng Phật nằm nghiêng Monywa Buddhas rất vĩ đại. Tượng Monywa Buddhas có chiều dài 90m, riêng phần đầu cao tới 1,8m. Tượng được xây dựng năm 1991 bên trong rỗng cho phép du khách có thể khám phá đi từ trong ra ngoài và lên tới đỉnh.

9. Tượng Tian Tan Buddha (Tượng Đại Phật Thiên Tân) – Hồng Kông

Tượng Tian Tan Buddha được người dân Đảo Lantau (Hong Kong, Trung Quốc) gọi là Đại Phật. Tượng được làm từ vật liệu đồng nguyên chất, khánh thành năm 1993. Sở dĩ mang tên Thiên Tân vì được dập khuôn y chang một bức tượng của chùa Thiên Đường ở thủ đô Bắc Kinh.
Tượng được xây dựng trên tòa sen cao 34m. Tay phải của Đức Phật nâng lên để gỡ bỏ mọi tai ương, đau buồn cho nhân loại. Còn tay trái để trên đầu gối, tượng trưng cho niềm hạnh phúc của chúng sinh.

10. Tượng Phật Hussain Sagar Buddha

Đây là bức tượng Phật khổng lồ xây dựng tại chính tâm của một chiếc hồ nhân tạo thuộc thành phố Hyderabad, Ấn Độ. Tượng cao 17m nặng tới trên 320 tấn. Đây là bức tượng Phật đá nguyên khối lớn nhất, nổi tiếng nhất Ấn Độ. Nó được nhiều nghệ nhân tham gia chạm khắc từ một khối đá duy nhất.

Xem thêm: 10 ngày cuối cùng của triều Nguyễn

Theo Phật học

 

10 ngày cuối cùng của triều Nguyễn

0

Như bao triều đại phong kiến khác tại Việt Nam trước đây, vương triều Nguyễn cũng đã được thành lập, phát triển và lụi tàn theo nhịp phế hưng của dòng chảy lịch sử dân tộc và theo đà trôi xuôi của thời gian. Hãy cùng huongdanviendulich.org tìm hiểu về 10 ngày cuối cùng của triều Nguyễn.

     Ngày 19-08-1945: Tổng lý Ngự tiền vǎn phòng triều đình Huế Phạm Khắc Hòe (lúc này đã có liên lạc với đồng chí Tôn Quang Phiệt có chủ trương vận động Hoàng đế Bảo Đại thoái vị) yết kiến vua gần tiếng đồng hồ: báo cáo tình hình dân nổi dậy khắp các tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Ngãi. Ở Thừa Thiên cũng có hai tổng thuộc huyện Phong Điền tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng, tịch thu sổ sách và đồng triện của tổng lý.

Ngay ở cố đô Huế cũng có biểu tình giương cao cờ đỏ sao vàng… Ông Hòe muốn vua thấy rằng, tự nguyện thoái vị là con đường tốt nhất… Trong ngày, vua bốn lần cho gọi ông Hòe hỏi đã biết lãnh tụ Việt Minh là ai chưa? Ông tin lãnh tụ Việt Minh sẽ vào Huế thành lập nội các (dưới chính thể quân chủ của vua)!?

     Ngày 20-08-1945: Sáng, ông ra phố đọc được bức thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Về triều, ông Hòe tâu lại và gợi ý xem vua có hiểu biết gì về Nguyễn Ái Quốc không. Bảo Đại cho rằng, chỉ biết Nguyễn Ái Quốc viết kịch “Con rồng tre” đả kích Khải Định, ngoài ra không biết gì hết. Ông kể cho vua nghe chuyện một câu sấm lưu truyền ở xứ Nghệ Tĩnh nói về Nguyễn Ái Quốc. Đó là câu “Đụn Sơn phân giải, Bó Đái thất thanh, Nam Đàn sinh Thánh”. Tương truyền là câu phán của Trạng Trình từ thế kỉ 16. Đến cuối thế kỉ 19 Đụn Sơn mới nứt ra, khe Bò Đái tắt tiếng thất! Bảo Đại lắng nghe câu chuyện thần bí đó một cách chǎm chú.

Ông Hòe tâu: “Từ nay không có Tây đứng kèm bên ngài trong lễ “Quốc khánh” nữa, nhưng ngài vẫn được vô sự nhờ có sự chở che của cách mạng”. Bảo Đại hỏi ngay ông Hòe: – Thế thì ông muốn khuyên trẫm thoái vị, nhường tất cả quyền binh cho Việt Minh phải không? – Tâu đúng vậy – Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là “thánh Nguyễn Ái Quốc” thì tôi sẵn sàng thoái vị ngay! Bảo Đại nói quả quyết.

     Ngày 21 và 22-08-1945: Ông Hòe dự thảo chiếu “thoái vị cho vua”. Không khí khởi nghĩa bừng bừng khắp Huế. Cả lính bảo an và lính hộ thành cũng ngả theo cách mạng. Kinh đô Huế là nơi có người đeo bài ngà nhiều nhất nước, thế mà từ 22-08 tuyệt đối không thấy một ai đeo bài ngà đi ngoài phố.

     Ngày 23-08-1945: Vua Bảo Đại dậy sớm hơn mọi ngày, mặt đượm buồn. Vì mấy ngày hôm trước có mấy người Việt Minh lên Kỳ đài hạ cờ của nhà vua xuống, treo cờ đỏ sao vàng lên. Đại nội đại thần Nguyễn Duy Quang ra cản không được. Vì những người lính khố vàng có mặt, không giúp Triều đình mà còn ủng hộ Việt Minh. Vua bực mình vì mình chưa thoái vị, đại biểu trung ương lâm thời chưa đến mà đã hạ cờ vua xuống. Bảo Đại nhận được tối hậu thư của Việt Minh do Nguyễm Xuân Dương (chánh vǎn phòng Bộ Nội vụ Triều đình Bảo Đại, chuyển vào, thư nêu ba điểm:

1- Nhà vua phải giao lại cho chính quyền cách mạng đội lính khố vàng với tất cả trang bị, vũ khí, đạn dược;

2- Nhà vua phải báo cho Nhật biết đã trao hết quyền bính cho chính quyền cách mạng;

3- Nhà vua phải điện ra cho các tỉnh trưởng phải giao chính quyền cho cách mạng, tức là Việt Minh.

Bức thư hạn cho nhà vua trước một giờ rưỡi ngày 23-08-1945! Đồng thời, bức thư cử ông Nguyễn Khắc Hòe làm liên lạc giữa nhà vua và chính quyền cách mạng.

12 giờ 25 phút, nội các triều Nguyễn họp dưới sự chủ tọa của nhà vua đồng ý chấp nhận các điều kiện của Việt Minh và thông qua “chiếu thoái vị” của nhà vua. Không ai có ý phản đối.
13 giờ 45 phút, ông Hòe gặp đại diện Việt Minh báo là nội các Bảo Đại đã chấp nhận các điều kiện của Việt Minh và đồng ý thoái vị.

     Ngày 24-08-1945: Bảo Đại tỏ rõ sự lo lắng và thất vọng khi nhận được bức điện của cách mạng từ Hà Nội gửi vào:” Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập. Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu vua thoái vị ngay để củng cố nền độc lập nước nhà”. Lo buồn vì không biết Hồ Chí Minh là ai? Không biết có phải là Nguyễn Ái Quốc hay không? Ông Hòe nhờ ông Đào Duy Anh tra cứu sách vở cũng không thấy. May nhờ Vũ Vǎn Hiền (nội các Bảo Đại) vừa từ Hà Nội vào mới biết đó chính là Nguyễn Ái Quốc. Nhà vua bật ngay câu tiếng Pháp:”Ca vaut bien le coup alors” nghĩa là: “Như thế thì thật đáng thoái vị”.

     Ngày 25-08-1945: Triều đình Huế tiếp được điện của Chính phủ: “Hoan nghênh tinh thần đoàn kết, dân chủ, thống nhất của Hoàng đế. Yêu cầu Hoàng đế chính thức thoái vị để yên lòng dân. Đại biểu Chính phủ lâm thời sắp tới Thuận Hóa”. Chiếu thoái vị và Bản tuyên chiếu với Hoàng tộc của Bảo Đại được niêm yết tại Phan Vǎn Lâu và sao gửi các địa phương.

     Ngày 26-08-1945: Cả buổi sáng, Bảo Đại ngồi nói chuyện với ông Hòe về chuyện hoàn dân, có ý định tạo lập cuộc sống trong hoàn cảnh mới. Nhà vua dự định sẽ về đồn điền riêng ở Bờ Lao (tức Bảo Lộc cũ), sẽ trồng chè và làm nghề sǎn bắn. Ông bán da hổ, thịt hổ, móng hổ v.v. còn ông Hòe sẽ nấu xương hổ làm cao hổ cốt!. Hai giờ ngày 26-08, Bảo Đại làm lễ báo cáo với tổ tiên ở Thế Miếu. Chỉ có bốn đại thần đến dự, dù mời rất nhiều người.

     Ngày 27-08-1945: Ông Hòe đang ngồi ở vǎn phòng ngự tiền, thì bỗng có thị vệ mang mũ cửu phượng đến nói là Hoàng hậu trả mũ. Ông Hòe buộc phải đến gặp Hoàng hậu nói rõ rằng. Tất cả các tài sản trong Đại nội đều thuộc chính quyền nhân dân, phải được kiểm kê, đối chiếu với sổ sách và bàn trả cho chính quyền nhân dân. Mong hoàng hậu đừng hiểu lầm.

     Ngày 28-08-1945: Cả chiều 27 và sáng 28, ông Hòe cho kiểm kê tài sản trong Đại nội. Quý giá nhất là các đồ bằng vàng, bạc, đá quí, châu báu có tính chất lịch sử của các đời nhà Nguyễn. Số tài sản này sau đó được giao cho chính quyền cách mạng đầy đủ, có giấy tờ minh bạch.

     Ngày 29-08-1945: Nhân dân Huế mít-tinh ở sân vận động chào mừng phái đoàn chính quyền cách mạng lâm thời từ Hà Nội vào nhận sự thoái vị của nhà vua. Phái đoàn gồm có: Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận. Vua Bảo Đại nêu nguyện vọng ba điểm:

1 – Đề nghị chính quyền cách mạng đối xử cho có sự thể các lǎng tẩm, đền miếu của các vua chúa nhà Nguyễn.

2 – Đề nghị coi những người trong hoàng tộc cũng như mọi công dân, không phân biệt đối xử.

3 – Đối với quan cũ, xin Chính phủ cách mạng cho phép tùy theo tinh thần và khả nǎng của mình mà đóng góp vào công cuộc giành độc lập, thống nhất và xây dựng đất nước. Phái đoàn cách mạng chấp nhận ba điểm của vua và đề nghị thêm ba điểm về việc thoái vị: Bảo Đại phải ra khỏi Đại nội. Trừ của riêng, tài sản của triều đình là tài sản của chính quyền cách mạng. Lǎng tẩm, đền miếu của nhà Nguyễn sẽ được giữ gìn, việc thờ cúng sẽ được đảm bảo.

     Ngày 30-08-1945: Buổi trưa, cờ vàng của nhà vua được kéo lên Kỳ đài. Hàng vạn đồng bào Huế có mặt từ sớm trước Ngọ Môn. Phái đoàn được đón lên lầu Ngũ Phụng trên Ngọ Môn, giữa tiếng hô vang của 5 vạn đồng bào. Bảo Đại chỉnh tề khǎn vàng, áo vàng, quần trắng, giày dừa thêu rồng ra đón phái đoàn. Sau khi ông Trần Huy Liệu phát biểu lý do buổi lễ. Bảo Đại đọc tờ chiếu thoái vị một cách xúc động. Chiếu nguyên xong thì cờ vàng của vua hạ xuống, cờ cách mạng kéo lên trong 21 phát súng lệnh rền vang.

Sau tiếng súng nổ, Bảo Đại trao quốc ấn nặng gần 10 kg và quốc kiếm bằng vàng có nạm ngọc. Ông Nguyễn Lương Bằng cài huy hiệu lên ngực Bảo Đại. Đồng thời Cù Huy Cận tuyên bố: vua Bảo Đại từ nay trở thành công dân Vĩnh Thụy (cũng là tên vua)… Ông tươi cười vẫy tay chào đồng bào ra về.

Theo Đoàn Thành Nhân (st)

(Nguồn: dulichhue.com)

 

KHÓA HỌC

NỘI DUNG XEM NHIỀU

NEW

CAO ĐẲNG - TC - VB2