25 C
Sài Gòn
Thứ tư, Tháng tư 30, 2025
Trang chủ Blog Trang 12

Những ông vua tàn độc và hoang dâm nhất sử Việt

0

NHỮNG ÔNG VUA TÀN ĐỘC VÀ HOANG DÂM NHẤT SỬ VIỆT

Bên cạnh những vị vua trụy lạc, một số ông vua được nhớ tới như những người u mê, nhu nhược hoặc tàn bạo. Suốt cả cuộc đời của các vị vua này chỉ xoay quanh thú tra tấn, biến thái bệnh hoạn, và những màn phòng the điên rồ… Vì thói đam mê hưởng lạc, chỉ trong ít năm, nhiều vị vua đã phá tan nát cơ đồ mà các bậc tiền bối dày công xây dựng trong cả thế kỷ.

VUA TÀN ĐỘC HOANG DÂM – LÊ LONG ĐĨNH

Ở vương triều Đại Việt, mỗi khi người đương thời nhắc đến tên Lê Long Đĩnh thì ngay lập tức nghĩ tới hình ảnh một hôn quân, bạo chúa.

Lê Long Đĩnh (986 – 1009) là vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam. Trong chính sử, ông được mô tả là người bạo – ngược, thích chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa.

Sử sách chép, sau khi Lê Hoàn mất vào tháng 3 năm 1005, Lê Long Đĩnh cùng các hoàng tử: Ngân Tích, Long Kính, Long Cân tranh giành ngôi vua với Thái tử Lê Long Việt. Đến tháng 10 năm 1005, Lê Ngân Tích bị giết, Long Việt lên ngôi. Tuy nhiên, chỉ ba ngày sau đó, Lê Long Đĩnh đã giết anh và giành ghế thiên tử. Ông tự xưng là Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế.

Ông nổi danh vì những thú vui tàn ác như: tra tấn tù binh hoặc với những tội nặng hay nhẹ của tù nhân vị vua này luôn nghĩ đến những trò hành hạ tàn độc nhất. Bằng các cách thức man rợ nhất nên mới được so sánh với Kiệt, Trụ ngày xưa …Việc lấy rơm tẩm dầu quấn vào người, rồi đốt sống … hay bỏ vào sọt, đem thả xuống sông là điều thường thấy hàng ngày. Độc ác hơn, nhà vua còn lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ. Khi thấy dao bổ vào đầu sư chảy máu ra vua lăn ra cười sặc sụa.

Theo sử sách! Do sống dâm dục quá độ nên Lê Long Đĩnh mắc bệnh trĩ nặng đến mức không ngồi được. Đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là “Ngọa triều”. Cái chết của ông ở tuổi 24 dẫn đến việc chấm dứt nhà Tiền Lê, quyền lực rơi vào tay nhà Lý. Ghi chú thêm: “Giới sử học Việt Nam gần đây đã có những cách nhìn khác về vị vua tai tiếng này … Họ cho rằng ông đã bị các sử gia thời sau bôi nhọ để phục vụ ý đồ của nhà cai trị.

Vì trên thực tế, nhiều nguồn sử liệu khẳng định, Lê Long Đĩnh là người trọng vọng Phật giáo và là ông vua đầu tiên cử người đi lấy kinh Đại Tạng về cho Việt Nam. Ông cũng được coi là một ông vua có tư duy kinh tế và một nhà quân sự có kinh nghiệm, với 6 lần trực tiếp cầm quân ra trận. Vì thế họ cho rằng, một vị vua như vậy thì không thể là người ham mê sắc dục đến bỏ bê chính sự và bệnh nặng đến mức liệt giường”. Mong họ chứng minh được để có thể sửa lại chính sử sau này!

VUA PHÁ NÁT CƠ ĐỒ NHÀ LÝ – LÝ CAO TÔNG

 Lý Cao Tông (1173–1210) là vị vua thứ 7 của nhà Lý. Lên ngôi từ năm 3 tuổi và giữ được ngôi đến khi trưởng thành. Ông đã trở thành vị vua đẩy triều Lý vào sự suy sụp.

Khi còn nhỏ, Cao Tông là người ngoan lành. Song khi lớn lên bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước lại sinh ra ham mê săn bắn. Chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi.

  • Năm 1189, ông đi du hành khắp các nơi trong cả nước, đi đến đâu mà có thần linh lại cho xây dựng đền miếu.
    Năm 1197 cho dựng cung Nghênh Thiềm.
  • Năm 1203 lại tiếp tục cho xây dựng hàng loạt cung điện  khiến trăm họ khốn khổ.
  • Năm 1208 trong nước xảy ra đói kém, người chết đói hàng loạt. Trong lúc ấy thì vua vẫn rong chơi vô độ, xây đền đài không ngớt. Nghe ngoài thành có trộm cướp thì lại lờ đi như không biết.

Do chính sự rối ren, lòng dân oán hận, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân và ly khai của các hào trưởng địa phương nổ ra.
Bên cạnh đó, nhà Tống còn xua quân sang quấy nhiễu biên giới Đại Việt khiến nhân dân phải chạy loạn vô cùng khổ sở.

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư nhận định về Lý Cao Tông như sau: “Vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm. Cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy vong”.

VUA MỞ ĐẦU SỰ SỤP ĐỔ CỦA NHÀ TRẦN- TRẦN DỤ TÔNG

Trần Dụ Tông (1336 – 1369) là vị vua thứ 7 của nhà Trần. Ông lên ngôi Hoàng đế khi còn thơ ấu. Thái thượng hoàng Trần Minh Tông điều hành triều chính, đất nước ổn định. Sau khi Minh Tông qua đời, Dụ Tông đích thân chấp chính và triều đại của ông đánh dấu sự mở đầu của quá trình suy yếu của Vương triều nhà Trần.

Vua Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát … thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho vui. Ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với tội đánh bạc, nhưng Trần Dụ Tông lại thích trò này. Vua chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng ông. Ông cũng nghiện rượu và thích rủ các quan lại cùng uống thi, Ai uống thắng được ông thăng chức.

Trần Dụ Tông còn sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung. Trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý … Sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và thả cá biển, đồi mồi vào nuôi.

Vua thích chơi bời và không nghe lời các trung thần. Các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến triều đình ngày càng rố nát. Do bỏ bê nông nghiệp nên trong nước xảy ra mất mùa nhiều năm. Bị sưu cao thuế nặng, dân trong nước oán thán, nổi lên làm loạn. Mặc dù các cuộc nổi dậy bị dẹp nhưng nhân tài vật lực trong nước bị hao tổn, kho tàng trống rỗng.

Do tình hình trong nước ngày càng rối ren, Chiêm Thành ở phía Nam nhiều lần thừa cơ đánh cướp và tỏ ra coi thường người Việt. Họ ngang ngược cử sứ giả sang Đại Việt để buộc vua Trần phải triều cống hàng năm. Sau khi Trần Dụ Tông mất khi ở tuổi 34, nhà Trần tiếp tục lao xuống vực thẳm của sự suy vong.

VUA HÈN – TRẦN PHẾ ĐẾ

Trần Phế Đế (1361 – 1388) là vị vua thứ 10 của nhà Trần. Lên nắm quyền trong buổi hoàng hôn của triều đại này, sự bất lực và nhu nhược của ông khiến tình hình càng trở nên không thể cứu vãn.

Trong thời gian trị vì của Trần Phế Đế, thế lực nhà Trần đã tụt dốc thảm hại, tạo điều kiện cho giặc Chiêm Thành tràn vào cướp phá, chiếm được cả thành Thăng Long trong một thời gian. Tuy vậy, vua không mấy quan tâm đến chuyện chống giặc mà chỉ lo đem của cải đi cất giấu.

Năm 1381, Phế Đế mở khoa thi Thái học sinh … Song từ đó lại lựa chọn những người khỏe mạnh để gia nhập quân đội. Việc làm kỳ lạ này đã làm mất lòng dân, nản lòng binh sĩ.
Không những vậy, triều đình còn tiếp tục cho tăng sưu thuế, để cứu kho tàng trống rỗng vì chiến tranh … Bắt mỗi suất đinh đóng 3 quan tiền thuế khiến cho nhân dân ngày càng thống khổ.

Cùng với Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông, vua đã để cho Hồ Quý Ly lộng hành, dẫn đến sự sụp đổ từng bước của nhà Trần. Mặc dù sau đó Phế Đế đã tỉnh ngộ và nhận ra mối hiểm họa từ Hồ Quý Ly, nhưng chính điều này đả dẫn đến cái chết tức tưởi của ông khi cha ông là Trần Nghệ Tông nghe lời Quý Ly giết hại ông. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư đánh giá Trần Phế Đế như sau: “Vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền ngày càng về tay kẻ dưới, xã tắc lung lay, đến thân mình cũng không giữ được”.

 VUA QUỶ – LÊ UY MỤC (SAU ÂN ÁI GIẾT LUÔN CUNG NHÂN)

 Lê Uy Mục (1488 –1509) có tên húy Lê Tuấn, là vị vua thứ 8 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Lên ngôi từ năm 17 tuổi, ông được xem là một vị hoàng đế tàn bạo và hoang dâm, đẩy triều Lê vào tình trạng hỗn loạn.

Theo sử sách ghi lại, Uy Mục là một vị vua ăn chơi vô độ … Ngay từ khi lên ngôi, ông đã nổi tiếng ham mê rượu chè, gái đẹp và giết người. Ít vị vua nào sánh bằng. Ông cũng nổi tiếng tàn bạo khi giết hại nhiều người vô tội.

Khi mới lên làm vua, Uy Mục đã giết tổ mẫu là bà Thái hoàng Thái hậu, giết quan Lễ bộ Thượng thư là Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là Nguyễn Quang Bật. Vì những người này từng phản đối việc đưa ông lên ngôi. Vị vua này còn ra lệnh cho giết hết những người Chiêm bị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, công thần.

Tuy mới 20 tuổi, Lê Uy Mục đã có một thú vui tình dục rất vô độ. Đêm nào, ông cũng gọi các phi tần, cung nhân vào uống rượu say sưa, hành lạc vô độ. Khi say, vua giết luôn cả cung nhân vừa được mình ôm ấp. Ai cũng kinh sợ, nhưng vì uy quyền tối thượng của vua, nên không dám chống đối, hay tìm cách trốn tránh. Việc triều chính bỏ bê cho bọn hoạn quan và bên họ ngoại khuynh đảo, lộng hành …

Sứ thần Trung Hoa chứng kiến sự quái gở của Uy Mục, đã làm thơ gọi ông là Vua quỷ (Quỷ vương). Sự bất nhân của Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong dân chúng và hàng ngũ quan lại. Hậu quả là một số người trong tôn thất và triều thần đã làm loạn, dẫn đến việc Giản Tu Công Lê Oanh lật đổ và giết chết vị hôn quân này sau 4 năm ở ngôi.

VUA LỢN – LÊ TƯƠNG DỰC

Sau khi giết chết Lê Uy Mục, Lê Oanh tự lập mình làm vua, lấy niên hiệu là Hồng Thuận, tức vua Lê Tương Dực (1495 – 1516). Trong thời gian đầu trị vì, Tương Dực tỏ ra là một vị vua tốt, nhưng càng về sau ông càng sa đà vào việc chơi bời xa xỉ truỵ lạc, bỏ bê việc nước.

Lê Tương Dực nổi tiếng với việc sai người thợ cả Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài. Quân dân làm trong mấy năm trời không xong, hao tổn tiền của, chết hại nhiều người. Ông còn cho đóng chiến thuyền bắt con gái khỏa thân trần truồng chèo chơi ở hồ Tây để cho ông và các triều thần ngắm … Ông giết chết 15 vương công, và cho gọi vợ con họ hay các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm.

Vì hoang dâm như thế, cho nên sứ nhà Minh sang trông thấy vua, bảo rằng Tương Dực có “tướng lợn”, nên dân chúng gọi ông là Vua Lợn (Vua Heo – Trư vương).

Lê Tương Dực hoang chơi khiến triều chính hết sức rối loạn, loạn lạc xảy ra khắp nơi trong cả nước. Do can gián vua không được mà còn bị phạt đánh bằng trượng, nguyên Quận công Trịnh Duy Sản đã giả mượn tiếng đi đánh giặc để đem binh vào cửa Bắc Thần giết vua Tương Dực, chấm dứt 7 năm cầm quyền của “Vua lợn” này.

VUA LOẠN DÂM – MẠC MẬU HỢP

Vị vua ngồi tại ngai lâu nhất trong số các vua Mạc thời hưng thịnh. Ông tại vị 30 năm, lại chính là người khiến cơ nghiệp nhà Mạc suy vong. Mà một phần nguyên nhân chính là do … thói hoang dâm hiếu sắc.

Mạc Mậu Hợp mới lên 2 tuổi đã được lên ngôi vua. Lúc này, triều chính vẫn do hai ông chú là Mạc Kính Điển và Mạc Đôn Nhượng phụ tá. Mậu Hợp sống xa hoa, kiêu ngạo, hay nghe xiểm nịnh, thường ít lắng nghe lời bàn luận, khuyên can của các bậc lương thần. Và đặc biệt, rất hoang dâm hiếu sắc.

Để thỏa mãn dục vọng, vua không ngần ngại mưu giết bề tôi, đoạt mỹ nhân (vợ của các vị ấy). Cụ thể định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ khiến cho một bộ phận binh lực nhà Mạc đã theo viên tướng này về quy phục vua Lê, làm cho thế lực của Mạc Mậu Hợp ngày càng suy yếu.

Sau đó, vua Mậu Hợp đã bị Trịnh Tùng treo sống bỏ đói khát 3 ngày …Rồi Trịnh Tùng đem Mậu Hợp ra chém đầu tại bãi cát Bồ Đề, đem đóng đinh vào 2 con mắt, bêu ra ngoài chợ 5 ngày …

CHÚA ĂN CHƠI DÂM LOẠN VÔ CHỪNG – TRỊNH GIANG

Trịnh Giang lên ngôi chúa vào tháng 10 năm 1729, ngay sau khi Trịnh Cương qua đời.

Do không tha thiết đến việc chính sự, nên năm 1736, Trịnh Giang phong cho Trịnh Doanh lúc đó mới 17 tuổi làm Tiết chế thủy bộ chủ quân, chức Thái úy, tước Ân Quốc công, cho mở phủ Lượng Quốc.

Mỗi tháng ba lần, Trịnh Doanh thay Trịnh Giang triều kiến trăm quan ở Trạch Các để nghe tâu trình công việc. Nổi tiếng là mê đàn bà từ nhỏ. Vậy nên, ngay khi lên nắm quyền chúa, Trịnh Giang đã sớm sử dụng quyền lực của mình để có thể hưởng lạc ái ân.

Tất nhiên, ngay sau đó, Trịnh Giang sớm nổi tiếng về thói ăn chơi dâm loạn không chừng mực. Càng về sau, Trịnh Giang càng có nhiều biểu hiện kỳ dị trong sinh hoạt tình dục. Để phục vụ cho việc ăn chơi, hưởng lạc của mình, chúa Trịnh Giang đã cho xây dựng nhiều cung quán, chùa chiền rất nguy nga và tốn kém …

Hằng ngày, các hoạn quan phải lựa ra một người đẹp trong số các cung nữ hoặc bắt cóc các dân nữ sống trong khu vực, tắm cho sạch sẽ rồi bỏ vào bao tải lớn, vác vào phòng chúa Trịnh Giang. Đêm ấy và nhiều đêm nữa, người đẹp này sẽ được chúa “ân sủng” theo ý thích. Việc đam mê đàn bà của chúa Trịnh Giang không chỉ dừng lại ở đó.

Để thỏa mãn nhu cầu dâm loạn của mình, chúa Trịnh Giang còn từng tư thông với vợ lẽ của cha mình. Chuyện này bị bà Vũ Thái phi phát giác. Bà ép Kỳ Viên phi Đặng Thị phải tự tử.
Một hôm, chẳng hiểu vì sao Trịnh Giang bị sét đánh gần chết. Nhân đó mà mắc bệnh “kinh quý”. Hễ nghe có sấm sét là kinh hồn bạt vía. Bọn hoạn quan liền nói với Trịnh Giang rằng, nguyên do chẳng qua vì dâm dục thái quá nên bị ác báo, muốn chữa, chỉ có cách … đào hầm làm nhà ở dưới đất, sét không thấy mà đánh nữa …Trịnh Giang nghe qua hữu lý, bèn dựng cung Thưởng Trì sâu dưới để ở, không dám đi ra ngoài như trước nữa.

VUA CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ – LÊ CHIÊU THỐNG

Lê Chiêu Thống (1765 – 1793) là vị vua cuối cùng của nhà Lê trung hưng. Bị mất ngôi năm 1788, ông đã sang cầu viện nhà Thanh đem quân sang đánh Quang Trung với hy vọng được đưa trở lại ngai vàng.

Sau khi hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà quét sạch 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống lại phải theo đám bại quân chạy sang nước Mẹ Trung Hoa ẩn náo.
Vẫn chưa thôi mộng phục quốc, Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện.

Nhưng nhà Thanh, phần vì quá sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến nên chỉ hứa hão mà không cho quân.
Thất vọng và chán nản, Lê Chiêu Thống rượu chè, lâm bệnh rồi qua đời năm 1793 và được nhà Thanh chôn theo nghi thức tước Công của họ.

(Theo Hoàng Phương)

Luật đi phượt

0

LUẬT ĐI  PHƯỢT

31 Tháng 10 2015 lúc 19:30

Đối với dân phượt, các hành trình chủ yếu được thực hiện bằng xe máy. Nên 1 quy định về việc tổ chức nhóm và đi lại bằng loại phương tiện này thiết nghĩ là rất cần thiết để đảm bảo cho thành công của chuyến đi – an toàn và đúng giờ.

Mình đưa lên tất cả những gì đã đúc kết, tổng hợp được từ kinh nghiệm của bản thân qua các chuyến đi phượt, cũng như tham khảo của rất nhiều các bài viết của các đàn anh đi trước để mọi người cùng đọc và thảo luận, đóng góp những ý kiến cũng như kinh nghiệm bổ ích để hoàn thiện bản nội quy này cho các anh em phượt cùng tham khảo và sử dụng.

 

Điều đầu tiên khi sử dụng xe máy lưu thông trên đường là bạn phải có giấy phép lái xe theo đúng loại xe mà mình đang sử dụng. Phải có Giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc cho xe đó. Và bắt buộc phải đội nón bảo hiểm cho người ngồi trên xe.

1. Chốt và dẫn đoàn làm gì? 

Phải phân công người dẫn đoàn và người chốt đoàn. Về nguyên tắc, dẫn đoàn dẫn đường đi và điều phối tốc độ của đoàn (ví dụ: khi có đoạn giới hạn tốc độ tối đa) và tính toán khi nào cả đoàn nên dừng lại như khi đổ xăng, thay quần áo (mưa, rét, nóng), hay các việc khác. Còn chốt đoàn nhằm đảm bảo không ai bị rớt lại đoàn và đoàn đi với khoảng cách đồng đều. Khi có ai tụt lại, chốt đoàn phải tụt lại theo và cùng xe tụt lại đó đi nhanh hơn để bắt kịp đoàn. Chính vì vậy, cần phân công 2 xe đi cuối thay nhau chốt và giám sát lẫn nhau.

– Xe dẫn đoàn thì đến chỗ rẽ thì dừng lại chờ anh em cùng rẽ. Trong trường hợp dừng trời tối, anh chị em dừng lại thì bật xi nhan phải để các xe khác còn nhìn thấy mà chọn lựa việc join đoàn (nếu là thành viên) hay né ra chỗ khác mà không cán phải chúng ta. Dẫn đoàn cần đặc biệt tinh tế trong việc cho anh chị em dừng, nghỉ; căn tầm xăng; chọn chỗ rộng, thoáng, cảnh đẹp. Ngoài ra phải chú ý đường, biển báo. Biển báo hạn chế tốc độ

– Chốt đoàn phải có (những hỗ trợ) mang đồ nghề sửa xe, cứu thương. Và có hiểu biết cũng như khả năng xử lý và phản ứng nhanh với các sự cố hỏng hóc về xe cộ, sơ cứu…….

2. Xế ôm lưu ý gì?

– Kiểm tra xe trước mỗi chuyến đi: đảm bảo an toàn khi đi đường và không làm tổn hại đến chiếc xe yêu quý của mình

– Về khoảng cách giữa các xe: Ở các đoạn Quốc lộ hay Cao tốc, khoảng cách giữa các xe khoảng 50m là vừa. Vì tốc độ xe khi đó khoảng 50-60km/h) đảm bảo an toàn.

– Khi chạy tối, tốc độ sẽ giảm và các xe có thể đi gần nhau hơn – khoảng 20m. Tuy nhiên, lúc này xe trước và xe sau sẽ đi so le với nhau. Như trên 2 đường thẳng song song, nhưng không cách quá xa. Tưởng tượng như vết chân các bác để lại trên cát ấy. Lợi ích của việc đi so le với nhau là các xe có thể soi đèn cho nhau, không bị khuất tầm nhìn. Và nếu có xe nào rủi ro ngã thì xe sau không bị dính theo. Trong trường hợp không áng chừng được khoảng cách là thế này. Mỗi xe đi làm sao để ít nhất nhìn được một xe đi sau và một xe đi trước mình. Đảm bảo mình đi đúng theo đội và thằng đằng sau cũng đi đúng theo mình.

– Khi trời tối nếu dừng lại yêu cầu các xế bật xi nhan xe để các xe nhận ra nhau, và để các phương tiện khác nhận biết xe.

– Dọc đường đi, khi xe nào có vấn đề gì cần dừng khẩn cấp hoặc cần sự hỗ trợ của mọi người, các ÔM sẽ phải có trách nhiệm liên lạc với ÔM của leader hoặc xe nào gần ngay mình nhất. Chính vì thế. các ôm lưu ý có số của tất cả các ôm khác trong máy điện thoại, để khỏi mất công moi giấy ra tìm số khi cần. Các xế cũng cần chỉ đạo các ôm quan sát xe đi trước đi sau trong đoàn, để đảm bảo mọi người luôn quan sát thấy nhau để có thể bảo vệ và đảm bảo an toàn cho nhau.

– Xế cẩn thận, chắc chắn và có tinh thần trách nhiệm với Ôm cũng như trách nhiệm với lịch trình của cả đoàn

– Không vượt xe dẫn đầu trong bất cứ trường hợp nào: Xe dẫn đi nhanh mình đi nhanh. Họ đi chậm mình đi chậm. Họ dừng mình cũng phải dừng. Nếu bắt buộc phải vượt với lý do chính đáng thì sau đó phải giảm tốc độ xuống 10km/h chờ họ vượt lên rồi mới được trở lại vận tốc ban đầu

– Đến chỗ rẽ, xe dẫn đầu sẽ dừng lại chờ đủ người rồi đi. Đề nghị mọi người dừng sau xe dẫn đầu theo thứ tự trước sau. Không dừng trước xe dẫn đầu, ko dồn cục quanh xe dẫn đầu gây cản trở giao thông và có thể gây nguy hiểm.

– Qua ngã ba ngã tư ko thấy xe dẫn đầu đứng chờ thì mặc định đi thẳng.

(*) Việc quan sát xe trong đoàn phân biệt ra ngày và đêm:

  1. Ban ngày thì cả đoàn nên bật đèn xe (đèn sương mù)  để nhìn qua gương chiếu hậu là thấy từ xa. Xe dẫn đoàn thỉnh thoảng cũng phải quan sát xem có đủ xe không (tránh xe trong đoàn tụt hậu mà không biết).
  2. Ban đêm thì đoàn nên đi chậm lại, khoảng cách giữa các xe gần nhau. Nên dán đề can phản quang ở mặt nạ xe máy và đằng sau mũ bảo hiểm để đoàn dễ nhận biết nhau. Đặc biệt các xe phải nhớ vị trí và thỉnh thoảng phải tập trung quan sát điểm danh lẫn nhau.
  3. Các xe đi nửa cuối đoàn khi vượt nhau phải ra hiệu để nhận biết vị trí của nhau. Hai xe áp chốt và xe chốt phải thường xuyên quan sát lẫn nhau.

3. Không phạm cấm kị 

– Tuyệt đối không được vượt dẫn đoàn, trừ khi đang đà lên dốc. Nhưng sau khi lên dốc xong phải giảm tốc độ nhường dẫn đoàn đi trước.

– Tuyệt đối không được tách đoàn

– Tuyệt đối không được lạng lách đánh võng khi đang lưu thông trên các tuyến đường

– Các vấn đề cư xử, hành xử với dân địa phương, mọi người đều biết phải làm gì tốt nhất cho mình và cho người khác.

– Không uống nhiều bia rượu trong các chặng nghỉ trên đường đi (đặc biệt là các chặng nghỉ trưa, giữa đường) hoặc làm ảnh hưởng đến lịch trình của ngày tiếp theo

 4. Vượt ôtô

Không được vượt khi trước mặt là khúc cua khuất tầm nhìn. Ta ko biết đằng trước có xe ngược chiều gì. Nếu cố vượt thì xác suất gặp tai nạn là cực kỳ cao.

– Chỉ được vượt bên trái, trừ khi đường có làn dành riêng cho xe máy.

– Bật xi nhan trái, nhá còi liên tục và di chuyển vào vùng gương chiếu hậu trái của ô tô.

– Chờ đến khi ô tô có dấu hiệu nhường đường mới được vượt. Ko thì tiếp tục chờ cho đến khi nó nhường đường.

– Cần đặc biệt kiên nhẫn và cẩn thận khi vượt xe siêu trường, xe container. Những loại xe này thân rất dài, khó vượt, hút gió mạnh, dễ bị đuôi xe quệt vào. Do vậy chỉ vượt khi đường đủ rộng và xe ô tô đã chắc chắn tỏ dấu hiệu nhường đường. Nếu loại xe này phóng nhanh thì chấp nhận đi đằng sau.

– Nếu xe ngược chiều phóng nhanh tiến gần và lấn hết làn đường thì phải tấp ngay vào sát lề bên phải. Thậm chí nếu cần có khi phải phi tạm xuống mương, ruộng để tránh. Nhiều xe điên đi lấn hết đường và ko thèm tránh ai cả.

 5. Đi đường đèo dốc:

Tùy độ dốc mà về số thích hợp: 3, 2, 1

– Không đi xe ga (Attila, SCR, LX, SH, PS, Nouvo, Mio, Click…), vừa hại xe vừa nguy hiểm khi lên dốc xuống dốc.

– Cách nhau tối thiểu 10m. Nếu ko sẽ đâm xe liên hoàn khi xe đầu bị đổ, nhất là khi xuống dốc.

– Khi lên dốc, nếu vít ga ko thấy gì là do máy quá nóng. Phải dừng lại, nghỉ 15 phút chờ máy nguội. Tuyệt đối ko phun nước vào máy vì sẽ gây nứt.

– Các xe phổ thông, đời ko quá cũ thì phanh trước là cơ, phanh sau là cơ (phanh đùm). Khi lên dốc, khói xe khét, phanh sau ko khét. Khi xuống dốc khói xe ko khét nhưng phanh sau khét. Đây là điều bình thường. Nếu cảm thấy mùi khét phát ra ở máy chứ ko phải ở đuôi xe (nơi có ống xả và phanh sau) thì phải dừng lại xem xét

– Khi xuống dốc. Nếu cảm thấy xe trôi dốc quá nhanh cầm bóp kết hợp hai phanh đồng thời về số 3, thậm chí số 2 để hãm bớt.

– Do vậy việc kiểm tra tổng thể xe là rất cần thiết. Đặc biệt là 2 phanh trước sau.

Cuối cùng, mỗi thành viên hãy luôn tự ý thức: trên đường Phượt điều gì cũng có thể xảy ra. Mỗi người chúng ta hãy luôn cẩn thận. Ngoài sống vì đam mê của mình cũng cần sống vì niềm vui của những người xung quanh nữa. Có biết bao người mà niềm vui của họ chỉ đơn giản là thấy chúng ta luôn mạnh khỏe…Trước khi cơn say mạo hiểm đẩy chúng ta vào một hành động điên rồ và bất cẩn nào đó, hãy nghĩ đến những ai sẽ khóc nếu ta không trở về…

ad jmyboy bg Nguyễn Thụ

 

Thuyết minh Cù Lao Chàm

0

THUYẾT MINH CÙ LAO CHÀM
(Theo yêu cầu của 1 số bạn ở page)

Cù lao Chàm thuộc xã Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Nằm cách bãi biển Cửa Đại khoảng 15 km đường biển. Cù lao Chàm (còn được biết đến với các tên gọi khác là Chiêm Bất Lao, Tiêm Bích La, Pa-lau-cham) rộng khoảng 15 km2 với hơn 2.900 dân, sống gần như biệt lập với đất liền.

Cù lao Chàm gồm 8 đảo nhỏ là: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông. Trong đó, dân cư tập trung chủ yếu ở các thôn Bãi Làng, Bãi Hương, Xóm Cấm, Bãi Ông của Hòn Lao.

Cù lao Chàm được thiên nhiên ưu ái có khí hậu quanh năm mát mẻ, cây cối bốn mùa phủ xanh trên các hòn đảo. Với 1.549 héc-ta (ha) rừng tự nhiên và 6.716 ha mặt nước, Cù lao Chàm mang trong mình một sự đa dạng sinh học vô cùng phong phú.

Khu bảo tồn Cù lao Chàm là nơi sinh sống của hàng trăm loài cá, sinh vật nhuyễn thể, các rạn san hô, các thảm rong, cỏ biển và các loài hải sản có giá trị cao sinh sống. Không chỉ có thế, nơi đây còn có nhiều loài động vật, thực vật quý hiếm.

Hiện Cù lao Chàm có 12 loài thú, 13 loài chim, 130 loài bò sát và 5 loài ếch nhái. Trong đó có 2 loài được ghi vào sách đỏ động vật Việt Nam là chim yến và khỉ đuôi dài. Đối với cư dân nơi đây, những chú khỉ đuôi dài tinh nghịch xuống tận bờ đá giáp với mặt nước biển vào mỗi sớm chiều, đã trở thành nếp sinh hoạt thường nhật. Nhiều người kể rằng chúng còn khoái chí ném đá ra biển và hét toáng lên khi thấy tàu thuyền đi ngang.

Bên cạnh một hệ sinh thái phong phú, khu bảo tồn biển Cù lao Chàm còn chứa trong mình các hệ văn hóa từ xa xưa để lại như: Sa Huỳnh, Champa, Đại Việt, cùng với các di tích đã chứng minh mối quan hệ giao lưu giữa Cù lao Chàm với các nước trong khu vực và là điểm neo đậu của các thương thuyền quốc tế trong hành trình con đường tơ lụa trên biển. Qua các nghiên cứu khảo cổ học cho thấy cách đây trên 3000 năm, nơi đây còn là nơi sinh sống của các cư dân cổ xưa. Đây thật sự là một địa điểm lý tưởng để khám phá.

Bên cạnh các di tích khảo cổ là sự tồn tại khá đầy đủ thiết chế văn hóa tín ngưỡng truyền thống của làng xã miền Trung nước ta. Các di tích tín ngưỡng hiện còn ở Cù lao Chàm, được xây dựng chủ yếu vào khoảng thế kỷ 17-18. Như: đình Đại Càn, miếu thờ Thành hoàng, miếu Tiền hiền, miếu Thần nông, miếu Tổ nghề yến, lăng Ông Ngư, lăng Cô, giếng Xóm Cấm, chùa Hải Tạng… là những địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn du khách

Ngoài ra, đã đến với Cù lao Chàm mà chưa được thả mình trên cánh võng đêm bên bờ biển thì thật phí. Những hàng dừa biển vững trãi vừa là cột cho những cánh võng đêm, vừa là tiếng gọi của thiên nhiên đưa gió biển về bên cánh võng. Và khi ánh bình minh buông những tia nắng đầu tiên trên biển bao la là bạn có thể cùng ngư dân kéo lưới. Đây sẽ là một trải nghiệm vô cùng thú vị. Khi người thành phố, lâu nay chỉ quen một bước lên xe nay học làm ngư dân với những công việc như: phơi mực, đánh cá, bắt cua hay chèo thuyền… Những trải nghiệm cùng ngư dân sẽ làm khách phương xa hiểu về cuộc sống bám biển.

Đến Cù lao Chàm, bạn đừng bỏ qua cơ hội tham gia một tour hấp dẫn là đi xem san hô bằng tàu hoặc thuyền thúng đáy kính. Trong thời gian 45 phút lênh đênh ngoài biển, du khách sẽ tận mắt ngắm nhìn và cảm nhận vẻ đẹp tuyệt vời của rạn san hô tại khu bảo tồn biển Cù lao Chàm. Nếu muốn mạo hiểm hơn nữa, du khách có thể tham gia môn lặn dưới đáy biển để thấy thật gần với các sinh vật biển dưới làn nước trong vắt của đại dương.

Hiện nay, Khu bảo tồn biển Cù lao Chàm thu hút gần 2 vạn khách du lịch mỗi năm. Có thể nói, điều thu hút du khách tới đây chính là muốn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ của biển cả, của những nền văn hóa cổ xưa và được tự mình khám phá thiên nhiên.

Ngoài vẻ đẹp thiên nhiên, con người nơi đây mới thực sự là “món quà quý” mà đảo dành tặng du khách. Sự chân tình, hồn hậu, mến khách và quyết tâm cao trong việc bảo vệ, giữ gìn hệ sinh thái của người dân nơi đây sẽ khiến bước chân những ai trót lãng du tới mảnh đất Cù lao phải quyến luyến lúc rời xa.

Ở Cù lao Chàm những năm gần đây không còn thấy đâu bóng dáng của rác thải hay túi nilon nữa. Từ giữa năm 2009, người dân nơi đây đã thực hiện nghiêm túc chỉ thị của thành phố Hội An về việc không sử dụng túi nilon trên đảo, cũng như giữ gìn vệ sinh môi trường.

Đây là một chương trình thiết thực khi động viên người dân nói “Không” với việc chặt cây về làm củi, nói “Không” với bao ni-lông, chỉ sử dụng giỏ nhựa để đi chợ, không dùng mìn đánh cá, không đánh bắt thủy hải sản vào mùa sinh sản, không lặn vớt san hô… Mỗi chương trình kinh tế – xã hội đưa ra, xã đều thông báo rộng rãi tới từng người dân để thảo luận, lấy ý kiến để hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện.

Thành phố Hội An cũng đã có chiến dịch cung cấp 1.300 chiếc giỏ đi chợ cho các hộ gia đình trên đảo và vận động bà con dùng các loại lá gói thực phẩm. Hơn 600 hộ dân nơi đây đồng lòng tẩy chay những chất gây hại không chỉ cho môi trường, mà còn có nguy cơ ảnh hưởng tới các thế hệ con cháu của họ sau này.

Thậm chí ở chợ còn có tấm bảng với khẩu hiệu “Xách giỏ đi chợ, phong cách của người nội trợ” và hình minh họa nói “Không” với túi nilon. Bà con dân đảo được thành phố và một số doanh nghiệp hỗ trợ trong việc tăng cường sử dụng túi giấy, nên ngày nào cũng có cán bộ tới phát túi miễn phí. Du khách cũng không mang túi nilon ra đảo và được khuyến khích dùng túi giấy.

Việc bảo tồn và giữ gìn vệ sinh và cảnh quan môi trường tại Cù lao Chàm chính là một thông điệp hữu ích nhất cho những đối tác, khách du lịch đến đây hiểu rằng: mọi động tác, mọi xử sự, cũng như việc khai thác đều phải tôn trọng, giữ gìn cảnh quan môi trường một cách toàn vẹn nhất.

Để phát huy hơn nữa những giá trị của Khu dự trữ sinh quyển Cù lao Chàm, mỗi người dân nơi đây đều hiểu rõ cần phải gắn chặt việc phát triển với bảo tồn để giữ gìn Cù lao Chàm cho con cháu mai sau.

Trong đó, phải làm tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng, bởi rừng không chỉ là thảm thực vật quý mà còn là “lá phổi” của đảo. Bên cạnh đó, cần tăng cường hiệu quả khai thác kinh tế biển, đưa ngành du lịch lên hàng đầu. Cùng với việc bảo tồn và nuôi dưỡng nguồn tài nguyên, lãnh đạo xã đang cố gắng chuyển đổi ngành nghề sản xuất cho người dân, tránh bê-tông hóa, tránh hủy hoại hệ sinh thái rừng và biển chính là những phương thức làm giàu cho Cù lao Chàm.

Đến Cù lao Chàm, sự thân thiện, dễ mến của con người nơi đây sẽ khiến bất cứ du khách nào cũng muốn được quay lại. Khi đi thăm các điểm du lịch, du khách sẽ nghe thấy nhiều lời mời chào, nhưng tuyệt nhiên sẽ không có ai kéo tay, kéo áo hay buông những lời nói kiếm nhã với bạn.

Có lẽ vì vậy mà tuy diện tích chỉ hơn 15km2 và cách đất liền hơn 1 hải lý với 30 phút chạy tàu, nhưng thu nhập từ du lịch của Cù lao Chàm luôn tăng trung bình 40% mỗi năm và nằm trong nhóm những điểm đến có tỷ lệ khách quay trở lại cao nhất cả nước.

Với biển xanh và tiếng sóng xô ngày đêm, những bãi biển hoang sơ và cát trắng mịn màng bao quanh chân đảo, những khóm nhà thưa thớt, bình yên cùng lối sống mộc mạc, chất phác của ngư dân miền đảo, Cù lao Chàm đã tạo nên bức tranh độc đáo và ấn tượng trong lòng mỗi du khách.

Sưu tầm

Xem thêm nhiều tài liệu thuyết minh khác : tại đây 

 

 

Huyền thoại khởi nghĩa Tây Sơn thượng đạo

0

HUYỀN THOẠI KHỞI NGHĨA TÂY SƠN THƯỢNG ĐẠO

Nói đến nhà Tây Sơn, người ta nghĩ ngay rằng thủ phủ của cuộc khởi nghĩa chính là vùng đất xã Kiên Mỹ, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Kỳ thực những ngày đầu ba anh em nhà Tây Sơn đã chọn vùng đất An Khê tỉnh Gia Lai để tập hợp nhân lực, đồn trữ binh lương và dựng cờ khởi nghĩa. Ngày đó, vùng đất này vẫn thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Tuy nhiên ngăn cách với đồng bằng bởi dãy núi trùng điệp nên được gọi là Tây Sơn thượng đạo…

Tư liệu về Tây Sơn thượng đạo liên quan đến cuộc khởi nghĩa của 3 anh em nhà Tây Sơn gần như không được đề cập nhiều đến trong sách sử. Sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” chỉ ghi một dòng ngắn ngủi: “Năm 1771, Nhạc thiết lập đồn trại ở đất Tây Sơn thượng đạo”. Lý giải cho việc ít ỏi thông tin này, theo những lời truyền miệng của người dân ở đây: sau khi lên ngôi vua, Nguyễn Ánh đã trả thù nhà Tây Sơn một cách hèn hạ và tàn khốc.

Do đó, người dân địa phương muốn thờ cũng phải giấu giếm, và tuyệt nhiên không bao giờ đề cập đến trong các sách vở. Vì vậy những gì liên quan đến ba anh em nhà Tây Sơn hiện nay còn lại chỉ qua lời kể được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Qua lời kể dân gian, những câu chuyện dần dần mang màu sắc thần thoại. Gắn với những di tích hiện có trên vùng đất này, người ta phần nào hình dung được một thời dựng nghiệp của nhà Tây Sơn. Chuyện Nguyễn Nhạc có vợ là người dân tộc Ba Na được người dân nơi đây khẳng định là sự thực.

Theo sử sách, từ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, Tây Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, bao gồm từ đồng bằng phía bắc tỉnh Bình Định lên đến vùng cao nguyên phía tây dãy Trường Sơn hùng vĩ. Phía đồng bằng được gọi là Tây Sơn hạ đạo. Vùng đất phía tây bên kia dãy đèo Mang hiểm trở tức đèo An Khê được gọi là Tây Sơn thượng đạo. Nay là các huyện An Khê, K’Bang, Kon Ch’ro của tỉnh Gia Lai.

Ngày ấy, theo lời khuyên của sư phụ dạy võ Trương Văn Hiến, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ từ vùng đất Kiên Mỹ thuộc hạ đạo đã lên đây lập căn cứ địa. An Khê có đất đai phì nhiêu, có nhiều lâm thổ sản quý, có mỏ sắt, mỏ diêm tiêu, nhiều voi ngựa… Cư dân hầu hết là người Ba Na và một số nông dân miền xuôi lên khai hoang, buôn bán.

Do những điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị trên, Tây Sơn thượng đạo nhanh chóng trở thành căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa của ba anh em nhà họ Nguyễn. Tại trung tâm lòng chảo tức thị trấn An Khê ngày nay có một con đường mang dấu tích được đắp cao. Người dân gọi là “lũy ông Nhạc” và đây chính là trung tâm, chỉ huy sở của nghĩa quân.

Căn cứ đồn lũy của nghĩa quân Tây Sơn nằm trong một vùng đất rộng khá bằng phẳng thành một lòng chảo bởi được 4 mặt che chắn: đó là quần sơn Ngọc Linh ở phía bắc tức Kon Tum, cao trên 3.000m; hai dãy núi chạy song song theo hướng Bắc Nam là đèo Mang (đèo An Khê) và đèo Mang Yang (Cổng Trời); phía đông và đông nam có dãy Trụ Lĩnh trùng điệp bao bọc với những dãy núi cao bình quân trên 400m so với mặt nước biển.

Kế bên đó, con sông Ba và suối Cái làm thành hai chiến hào thiên nhiên bao bọc lấy mặt Tây và Nam. Toàn bộ khu vực này một lần nữa lại được bao bọc bởi một vành đai núi non án ngữ ở phía đông, gồm dãy đèo Mang nhiều ngọn núi cao dưới 1.000m, sườn đông dốc đứng cùng với 3 ngọn núi lớn là hòn Bình, hòn Nhược và hòn Tào tạo thành bức tường thành thiên nhiên vĩ đại.

Trong số 3 ngọn núi nhìn về phía đông, thì núi ông Bình (chỉ Nguyễn Huệ, cách gọi khác đi để che mắt nhà Nguyễn) cao nhất, đến 814m. Đứng ở đây, nghĩa quân có thể quan sát đến tận vùng hạ đạo, bờ biển Quy Nhơn. Hòn Bình nối với hòn Nhược (Nguyễn Nhạc) bằng một lũy đắp kiên cố tạo thành thế liên hoàn án ngữ phía đông và nam. Trong khi đó dưới chân hòn Tào (Nguyễn Lữ) là khu vực gò Kho, xóm Ké, nơi nghĩa quân đồn trữ binh lương.

Mặc dù được các bức tường thành thiên nhiên là núi non bao bọc bốn bên, nhưng từ Tây Sơn thượng đạo theo nhiều con đường xuyên sơn khác có thể đi ra các tỉnh phía bắc bằng con đường sang Kon Tum xuống Quảng Nam ra Huế. Còn phía nam, sông Ba và các con đường mòn dọc theo các sông, suối tạo thành nhiều đường giao thông thủy bộ quan trọng, nối liền Tây Sơn thượng đạo với vựa lúa Phú Yên và các tỉnh Nam Trung Bộ. Chính vị trí và địa hình ấy tạo cho An Khê có một địa bàn chiến lược lợi hại. Có thể coi vùng này như một bậc thang quan trọng giữa đồng bằng và Tây Nguyên. Từ đây nghĩa quân có thể tiến công xuống đồng bằng và rút về phòng thủ thuận lợi.

Người vợ Ba Na của Nguyễn Nhạc

Từ thị trấn An Khê đi về phía nam thị trấn chừng 8 cây số, người ta thấy một hòn đá hình chiếc ngai nằm bên bờ con suối Chơ Ngao tại làng Đê Chơ Gang thuộc xã Phú An. Người dân Ba Na đến giờ vẫn kính cẩn gọi đó là “to mo bok Nhạc” tức “hòn đá ông Nhạc”.

Lời kể của cụ Huỳnh Ngọc Chương năm nay trên 90 tuổi, có 6 đời lập nghiệp tại An Khê, kể rằng: ngày ấy có một người đàn ông người Kinh thường đến vùng này mua trầu. Người ta gọi ông là ông Hai Trầu. Ông Hai Trầu vẫn thường ngồi nghỉ chân tại hòn đá này, và sau này là nơi gặp mặt hội họp tướng lĩnh. Từ đời này qua đời khác, hòn đá này được coi là vật thiêng của làng. Ông Hai Trầu chính là Nguyễn Nhạc, người khởi nghiệp của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

Tuy nhiên, nếu không có một người con gái Ba Na thông minh và xinh đẹp giúp sức thì Nguyễn Nhạc cũng khó lòng chiếm được cảm tình của người dân Ba Na nơi đây. Nàng tên là Ja Dok (đọc là Gia – Tót), con của vị tù trưởng Ba Na hùng mạnh và giàu có.

Những ngày Nguyễn Nhạc lên đây buôn bán trầu, bà có cảm nhận người này không chỉ đi buôn mà đang ấp ủ một việc lớn. Cảm tấm lòng người anh hùng, bà Ja Dok nhận làm vợ của ông. Ngày nay dân làng Si Tơ, xã Tơ Tung, huyện K’Bang không những tự hào là quê hương của anh hùng Núp, mà còn tự hào là nơi đã cung cấp cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn một nữ nhân anh kiệt. Dưới sự giúp sức của bà, Nguyễn Nhạc đã lấy được lòng cha bà là vị tù trưởng. Bà đã vận động cha và dân trong vùng ủng hộ cho nghĩa quân Tây Sơn 300 thớt voi, 400 ngựa và hàng trăm gùi lương thực.

Kể từ đó, công việc của bà gắn với hoạt động của nghĩa quân. Hiện nay dưới chân núi Ca Noong thuộc thôn Tú Thủy, xã Nghĩa An, huyện K’Bang hiện còn cánh đồng chừng 20ha, gọi là cánh đồng Cô Hầu, và một vườn khoảng 500 cây mít, vẫn còn những cây mít cổ thụ, đến mùa vẫn ra sai quả. Đây là nơi bà Ja Dok khai phá để sản xuất nuôi quân. Ngày đó từ thị trấn An Khê đi về phía nam là con đường độc đạo bé xíu, nhưng bà và Nguyễn Nhạc cũng đã đi cả trăm dặm đường vào tận làng Đê H’lang, xã Yang Nam, huyện Kông Chro, dưới chân núi Ja Prum để thuyết phục đồng bào Ba Na nơi đây đi theo cuộc khởi nghĩa.

Tại đây hiện giờ còn dấu tích của nền nhà, nhiều mảnh ngói vảy cá, một hồ nước xây bằng đá tổ ong. Mỗi khi đi qua đây, người dân tộc Ba Na vẫn bày tỏ niềm kính cẩn. Họ nói rằng đó là nền nhà của Nguyễn Nhạc. Cách nền nhà 500m, trong một hốc đá kín đáo bên bờ suối có nhiều đồng tiền xu bằng đồng, gọi là “kho tiền Nguyễn Nhạc”. Trong đợt khảo sát năm 1990, ngành văn hóa thông tin tỉnh Gia Lai sưu tầm được 15 đồng tiền xu gửi tặng Bảo tàng Quang Trung ở Bình Định.

Người dân vùng này kính trọng gọi bà Ja Dok bằng tên ngọn Ja Prum, ngọn núi cao nhất trong vùng. Sau khi bà mất đi, người Ba Na đã an táng bà trên ngọn núi cao nhất phía đông và lấy tên bà đặt cho ngọn núi, núi Ja Dok. Ngày nay dân làng Si Tơ và cả anh hùng Núp ngày còn sống, vẫn cho rằng trong làng vẫn còn dòng giống của nữ chúa.

Truyền thuyết về một thời dựng nghiệp

Tại thôn An Thượng, xã Song An, huyện An Khê, ngay trên trục quốc lộ 19 có một ngôi miếu nhỏ, gọi là miếu Xà. Chuyện tương truyền rằng, năm 1773, khi ba anh em nhà Tây Sơn xuất quân tiến xuống đồng bằng. Khi đến khúc ngoẹo Cây Khế tại đèo Mang (là khúc cua tay áo tại đèo An Khê hiện nay), bất ngờ có một con rắn đen như gỗ mun, to như cột đình ra nằm chặn giữa đường.

Trong hàng ngũ tướng lĩnh và nghĩa quân có người cho rằng đây là điềm gở, đề nghị thâu quân. Nhưng Nguyễn Huệ đã tiến lên, rút kiếm chém đứt đôi con rắn, lấy máu tế cờ và hòa rượu cho binh sĩ uống. Sau đó Nguyễn Huệ cho người trèo lên cây ké phất cờ và cây cầy gần đó nổi trống làm hiệu tiến binh. Từ lần xuất quân đó, Nguyễn Nhạc đã lấy được thành Quy Nhơn.

Câu chuyện truyền thuyết về Nguyễn Huệ như người anh hùng đất Bái trảm xà khởi nghĩa, theo lời kể của cụ Đỗ Tùng ở tại thôn An Thượng, xã Song An (đã mất). Sau khi thắng trận, Nguyễn Nhạc cho lập miếu thờ rắn thần tại ngoẹo Cây Khế, nhưng do thời gian và biến loạn nên người dân đưa miếu Xà về thôn An Thượng. Riêng cây cầy và cây ké, đã qua hơn 200 năm nên không còn dấu tích.

Để có được đội binh hùng tướng mạnh, ba anh em nhà Tây Sơn thời kỳ đầu đã có những cách thuyết phục người dân Ba Na khá ngoạn mục. Chuyện rằng lúc mới lên đây, người Ba Na thấy ba anh em Nguyễn Huệ còn trẻ tuổi nên không phục. Trước mặt dân làng, Nguyễn Huệ thách ai nhấc nổi tảng đá trên trăm cân thì làm vua. Không ai nhấc nổi, chỉ có Nguyễn Huệ nhấc lên nhẹ nhàng. Nguyễn Huệ đã cho lấy mật, mỡ viết vào lá cây rừng chữ “Nhạc làm vua, Huệ làm tướng, Lữ làm quan”. Loài kiến ăn theo đó thủng lá thành chữ. Sau đó Nguyễn Huệ sai người cứ nửa đêm lên ngọn Mò O đốt lửa. Người Ba Na lên xem, tin đó là lời Giàng phán, từ đó nghe theo.

Một kỳ công khác là Nguyễn Huệ đã chinh phục đàn ngựa rừng và từ đó thu phục vị tù trưởng Xê Đăng. Hồi đó trên núi Hình Hốt (còn gọi là núi Hiển Hách) có đàn ngựa rừng rất hung hãn, thường về phá rẫy nương của đồng bào. Nguyễn Huệ cho lựa trong bầy ngựa nhà một số ngựa cái thật sung sức, thả ra. Cứ đến chiều, ông lại ra gọi bầy ngựa cái chạy về và cho ăn cỏ. Bầy ngựa rừng lâu ngày thành quen, nhập cuộc với bầy ngựa nhà và sau này, mỗi lần ông gọi cũng theo ngựa nhà chạy đến. Vị tù trưởng Xê Đăng thấy Nguyễn Huệ gọi được bầy ngựa rừng, nghĩ rằng đây là người của Giàng. Từ đó quy phục và ủng hộ lương thảo, binh lính cho nghĩa quân.

Còn rất nhiều câu chuyện và dấu tích của nhà Tây Sơn tại vùng đất Tây sơn thượng đạo này. Ở phía nam huyện An Khê, vùng Bà Giang thuộc xã Bắc Giang, có một hồ cá xây bằng đá ong mang tên “hồ ông Nhạc”. Gần đấy có một đập nước lớn gọi là “sa khổng lồ”. Nhân dân địa phương quen nói “sa khổng lồ, hồ ông Nhạc”. Tương truyền rằng đó là hồ nước ăn của nghĩa quân. Kế đó có Hóc Yến và núi Lãnh Lương, nơi Nguyễn Nhạc mở tiệc khao quân và phân phát lương thực.

Ngoài việc thu phục người Ba Na, tại đây ba anh em nhà Tây Sơn cũng đã thu phục được những tướng tài cho cuộc khởi nghĩa. Tương truyền rằng khi nghĩa quân còn ở đây, Trần Quang Diệu đã từ Hoài Ân, Bình Định tìm đến. Giữa đường, Trần Quang Diệu bị cọp tấn công và ông đã đánh lại. Quần nhau nửa ngày trời, Trần Quang Diệu xuống sức và may sao lúc đó Bùi Thị Xuân cũng đang trên đường tìm Nguyễn Nhạc đầu quân, nhìn thấy và giương cung bắn chết cọp.

Cũng trên vùng đất thượng đạo này, cơ duyên đã đưa Vũ Văn Dũng đến với nghĩa quân. Một hôm ba anh em Nguyễn Huệ đi trên một con đường hiểm yếu, nghe một tiếng quát vang cả núi rừng, chim bay tan tác. Một tướng cướp vai hùm lưng gấu nhảy xổ ra và tấn công. Nguyễn Nhạc nghênh chiến. Hai bên quần nhau mấy trăm hiệp, không phân thắng bại. Nguyễn Huệ đứng ngoài xem và thấy đường võ của tên cướp rất giống những ngón đòn thầy dạy, bèn kêu dừng trận đánh lại và hỏi. Hóa ra tướng cướp tên là Vũ Văn Dũng, cùng học võ ở thầy Hiến. Nhận ra đồng môn, Vũ Văn Dũng về đứng dưới cờ Tây Sơn và sau này lập nhiều chiến công hiển hách .

 

Đặng Vỹ

Lịch sử ngày lễ tạ ơn

0

LỊCH SỬ NGÀY LỄ TẠ ƠN

Khi những chiếc lá vàng cuối cùng rơi và khí trời càng trở lạnh cũng là lúc cả đất nước Hoa Kỳ đang chuẩn bị bước vào những ngày lễ trọng đại và thiêng liêng. Một trong những ngày lễ quan trọng đó là Lễ Tạ Ơn .

Lễ Tạ Ơn như đem những người sống trên đất nước Hoa Kỳ trở về với những ngày đầu của tổ tiên họ… Vào ngày 6 tháng 9 năm 1620, có 102 người, vừa đàn ông, đàn bà, trẻ con cùng một số vật dụng bước lên con tàu Mayflower rời Anh Quốc, vượt đại dương để tiến về Tân-thế-giới. Họ ra đi và mang trong lòng một nỗi khao khát: tìm tự do tôn giáo (seeking religious freedom). Họ được gọi bằng tên mới “Những người hành hương” (Pilgrims). Một vài nhà sử học coi đây là Lễ Tạ Ơn đầu tiên mặc dù không có tiệc tùng, ăn uống, vui chơi…

Mùa đông đầu tiên quá lạnh, thật vô cùng khắc nghiệt, đến với họ. Thực phẩm lại thiếu thốn trầm trọng. Tháng 12 năm ấy có sáu người qua đời. Qua tháng Giêng có tám người. Tháng Hai tăng lên 17 người. Và 13 người qua đời trong tháng Ba. Những người này đã âm thầm chôn cất những thi hài trong đêm tối vì sợ Thổ Dân (Native Indians) biết được có thể tấn công họ chăng! May mắn, không có xung đột nào đáng kể giữa Người Da Đỏ và Người Hành Hương như dự đoán. Trái lại Thổ Dân rất thân thiện và tận tình giúp đỡ họ trong cuộc sống mới về việc: dạy cách trồng tỉa, săn bắn, nấu nướng các thứ hoa quả lạ…

Tháng Tư họ cùng nhau trồng bắp dưới sự chỉ dẫn của một Người Da Đỏ tên là Squanto. Những luống bắp nầy quyết định sự sống còn của họ trong mùa Đông sắp tới. Họ vui mừng vì mùa Xuân và mùa Hè năm 1621 thật quá tuyệt đẹp! Bắp lên tươi tốt hứa hẹn một vụ mùa no nê như lòng họ mơ ước. Mùa Đông lại về, nhưng bây giờ không còn là một mối đe dọa nữa.

Mùa màng đã gặt hái xong, họ có dư thực phẩm để sống qua những ngày đông giá rét. Cũng không còn sợ lạnh vì đã làm được 11 cái nhà vững chắc đủ chỗ  quây quần sum họp. Họ quyết định tổ chức  Hội Ngày Mùa (Harvest Festival) để tạ ơn Thượng Đế cho họ sống sót qua mùa đông đầu tiên. Đó là lễ Tạ Ơn đầu tiên trên đất Mỹ. Ngày tháng chính thức của “First Thanksgiving” này không được chép lại. Chỉ biết đầu tháng 11 năm 1621.

Thực phẩm chính trong Lễ Tạ Ơn này gồm: Bắp, bí đỏ, chim, vịt, ngỗng và gà tây. Họ cũng mời khách là các Thổ Dân. Tù trưởng Massasoit dẫn 90 dũng sĩ đến dự “party” và cũng đem biếu Thống Đốc của nhóm Người Hành Hương lúc bấy giờ là Bradford năm con nai nhân ngày Lễ Tạ Ơn đó. Họ ăn uống vui chơi suốt một tuần lễ.

Lịch sử ngày Lễ Tạ Ơn của người Mỹ cũng thăng trầm, trôi nổi theo vận nước của họ. Các tiểu bang thuộc địa đầu tiên không thống nhất được ý kiến chung về một ngày Lễ Tạ Ơn. Họ giữ ngày lễ tùy ý mà họ cho là thích hợp. Khi cuộc cách mạng giành độc lập từ tay Người Anh thành công, họ mới nghĩ đến một Lễ Tạ Ơn chung cho 13 tiểu bang.

Tổng Thống đầu tiên của nước Mỹ, George Washington, kêu gọi dân chúng giữ ngày thứ năm 26 tháng 11 năm 1789 làm ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên cho toàn quốc (First National Thanksgiving). Nhưng sau đó lễ tạ ơn cũng không được mọi người công nhận theo một ngày tháng nhất định. Dẫu vậy, càng ngày càng có nhiều người đưa ra ý kiến nên có một ngày nhất định đưa lễ Tạ Ơn thành quốc lễ (National Holiday) và đưa quyền quyết định cho chính phủ Liên-Bang.

Một trong những người có công trong việc thúc đẩy việc thành hình ngày Lễ là bà Sarah Josepha Hale. Năm 1837, bà trở thành chủ bút của một tạp chí phụ nữ nổi tiếng có tên “Godey’s Lady’s Book”. Bà đã viết hàng trăm lá thư gởi đến các nghị sĩ Quốc Hội và những người có thế lực lúc bấy giờ hòng vận động đưa ngày Thanksgiving vào quốc lễ. Trong thời kỳ nội chiến (Civil War) năm 1861, bà viết một tâm thư kêu gọi hai phe buông súng một ngày để giữ Lễ Tạ Ơn, nhưng không phe nào chịu nghe cả. Bà thất vọng!

Mãi đến năm 1863, Tổng thống Abraham Lincoln nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc. Ông chỉ định ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc. Chẳng may, ông bị ám sát, Andrew Johnson lên làm Tổng Thống. Tiếp tục truyền thống cũ, nhưng đổi lại ngày thứ năm tuần thứ 4 tháng 11 làm Lễ Tạ Ơn.

Rồi trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến 1941, Tổng Thống Franklin Roosevelt chỉ định ngày thứ năm của tuần lễ thứ ba trong tháng 11 làm lễ Tạ Ơn thay vì thứ năm trong của tuần lễ thứ 4. Nhưng lần này, Roosevelt bị các thương gia và các đảng viên Đảng Cộng Hòa chống đối dữ dội. Họ cho rằng Tổng Thống đã đi ngược lại truyền thống cũ. Hai năm sau, Tổng Thống Roosevelt rút lại quyết định và đặt ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc mãi cho đến ngày hôm nay.

Lễ Tạ Ơn là dịp để chúng ta đếm các ơn lành Trời ban. Nhìn lại những ngày tháng tại quê nhà, cuộc hành trình tị nạn đầy gian nan vừa qua và những thành quả mà Người Mỹ Gốc Việt đạt được ngày hôm nay để chúng ta dâng lên Thượng Đế lời Tạ Ơn sâu xa nhất. Tạ ơn Trời vì Ngài đã ban cho ta sự sống, hơi thở, sức khoẻ và bao nhiêu là ân huệ. Chúng ta cũng nên cảm ơn nhau. Cảm ơn thân quyến, bạn bè, những người thân quen và ngay cả những người chưa từng biết về sự chan hòa của họ trong cuộc sống của mỗi chúng ta trong cộng đồng nhân loại.

Kính chúc mọi người, mọi nhà một kỳ Lễ Tạ Ơn tràn đầy ý nghĩa!
Copyright © 2017. NHU LIỆU THÁNH KINH ONLINE
Designed by VN-Church.

Lăng mộ vua Tự Đức (P2)-Thuyết minh tại điểm du lịch

0

LĂNG MỘ VUA TỰ ĐỨC (P2) -THUYẾT MINH TẠI ĐIỂM DU LỊCH

Một khó khăn lớn nữa của vua Tự Đức là ông làm vua ở thời điểm có nhiều tư tưởng trái ngược nhau trong triều đình Huế và nho sĩ. Người bảo đánh Tây, kẻ lại cầu hòa. Vua Tự Đức không đủ bản lĩnh để khẳng định một lựa chọn khi đứng giữa hai bên. Cuối cùng thì việc lớn không làm được. Trong bài Khiêm Cung Kí, nhà vua cũng đã tự nhận trách nhiệm của mình : “Không sáng suốt trong việc biết người, ấy là tội của ta. Hàng trăm việc không làm được, đều là tội của ta cả…”

Sự do dự của ông còn thể hiện trong di chiếu của mình trước khi qua đời. Khi quyết định truyền ngôi lại cho người con nuôi lớn tuổi nhất để tránh nạn quyền thần (đã từng xảy ra với mình). Thế nhưng ông còn do dự đến nỗi ghi trong di chiếu rằng: người này thiếu tài đức, lại có nhiều tật xấu,…v…v… Và chính điều này đã mang lại bi kịch cho vị vua nối ngôi là Dục Đức cũng như các vị vua sau này và phần này góp phần làm cho vương triều nhà Nguyễn càng thêm suy yếu.

Kể đến đây, chắc hẳn quý vị cũng đồng ý với tôi rằng làm vua không hề dễ dàng và sung sướng như mọi người vẫn nghĩ phải không ạ?

Quý khách nhìn sang hai bên nhà bia có thể thấy hai trụ biểu sừng sững uy nguy, thể hiện uy quyền và tài đức của nhà vua. Trụ biểu thường được dựng ở những công trình quan trọng mang tầm cỡ quốc gia. Khi nhìn thấy trụ biểu này, thì người ta hiểu ra đây là nơi trang nghiêm, phải kính cẩn, giữ yên lặng, không được phép nói chuyện ồn ào. Phía trên trụ biểu được tạc hình hoa sen. Đây là một trong những dấu ấn của Phật Giáo được thể hiện trong các công trình kiến trúc dưới thời Nguyễn, triều đại mà Phật Giáo rất thịnh hành.

Đứng từ đây nhìn về phía bên phải của quý khách, đó là phần mộ của Hoàng Hậu của vua – Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu. Tên thật của bà là Võ Thị Duyên. Bà là con của Thái Tử Thái Bảo, Đông các đại học sĩ, kiêm quản Quốc Tử Giám sự vụ Võ Xuân Cần.

Phía xa hơn là phần mộ của vua Kiến Phúc. Kiến Phúc là một trong ba người con nuôi của vua Tự Đức mà sau này được lên ngôi vua. Hai người anh của vua Kiến Phúc là con của Kiến Thái Vương, ông có ba người con trai là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, Nguyễn Phúc Ưng Lịch và Nguyễn Phúc Ưng Đường đều được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và sau này lần lượt đăng ngôi, chính là ba vị vua Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh.

Trong người này thì Kiến Phúc là người con nuôi được Tự Đức yêu quý nhất. Nhưng thật không may, ông chỉ làm vua được 8 tháng thì qua đời. Và do hoàn cảnh binh biến rối ren lúc bấy giờ, vua Kiến Phúc đã được an táng ở đây. Câu chuyện về cái chết của vua Kiến Phúc đến nay vẫn còn nhiều nghi vấn. Nếu quý khách quan tâm thì lát nữa khi trở ra tôi sẽ kế cho quý khách nghe. Bây giờ xin mời quý khách đi vào bên trong.

Xin mời quý khách dừng lại trong giây lát. Kính thưa quý khách, chúng ta đang đi ngang qua hồ Tiểu Khiêm. Hồ có hình bán nguyệt, ý muốn nói rằng trăng khuyết rồi trăng sẽ lại tròn. Cuộc đời có lúc trầm rồi sẽ có lúc thăng, và mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp. Đây cũng là một quan niệm rất có ý nghĩa với vua Tự Đức, khi mà cuộc đời của ông đã có quá nhiều biến cố và bất hạnh rồi.

Và đây chính là nơi mà ông muốn hòa mình vào với cảnh quan thanh thoát, hữu tình, với thiên nhiên cây cỏ để tìm quên. Hồ được xây ngay trước phần mộ của vua còn mang một ý nghĩa sâu xa nữa, đó là hồ đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội. Điều này thể hiện sự chu toàn của vua trong việc đón nhận cái chết. Hồ Tiểu Khiêm được xây dựng ngay trước chính diện của Bửu Thành. Chính là nơi chôn cất thi hài của vua Tự Đức. Bây giờ xin mời quý khách tiếp tục đi vào bên trong để tham quan mộ vua.

Kính thưa quý khách, đây là khu vực bia mộ của nhà vua. Phía trước – sau đều có tấm bình phong làm tiền án và hậu chẩm, lấy hồ Tiểu Khiêm là yếu tố minh đường và xung quanh là tường thành bao quanh, bốn bề thông reo. Chính giữa là bia mộ vua được xây bằng đá. Tuy nhiên, thi hài của vua đang ở vị trí nào thì không một ai biết.

Tương truyền rằng, khi vua chết, đoàn quân đưa tang vua đi thuyền xuôi hồ Lưu Khiêm rồi vào đến đây thì đào một đường hầm xuống thẳng huyệt đạo. Họ chôn cất thi hài vua ở một vị trí bí mật, xong thì lấp lại bằng đá thanh và công trình có được hình dáng bề ngoài như chúng ta thấy. Sau đó thì những người đưa tang này không bao giờ trở ra nữa. Và bí mật về vị trí chôn thi hài của vua đến nay vẫn còn là một ẩn số. Một số người cho rằng chỉ có hoàng tử thân tín của vua biết, nhưng thực hư thế nào đến nay vẫn chưa hề được hé mở.

Có một điều đặt biệt là không phải riêng gì vua Tự Đức mới chọn cách mộ táng bí mật như vậy. Trong hầu hết các lăng mộ của các vị vua khác trong triều Nguyễn, vị trí chôn thi hài của nhà vua cũng được giữ bí mật. Lí do thì có rất nhiều. Xuất phát từ niềm tin vua vẫn tiếp tục sống và hưởng thụ phú quý ở một thế giới khác, người ta thường chôn cùng thi hài của vua những tài sản vàng ngọc và châu báu quý giá. Vì thế mộ vua sẽ dễ trở thành mục tiêu của những tên đào trộm mộ.

Bên cạnh nguyên nhân này, mộ vua cần được giữ bí mật vì một căn nguyên sâu xa nữa, đó là tránh sự trả thù. Để hiểu thêm về điều này thì chúng ta phải quay ngược về quá khứ để tìm hiểu mối thâm thù giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn – tức vua Quang Trung (Nguyễn Huệ).

Lúc bấy giờ khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thành công, vua Quang Trung lên ngôi nhưng vẫn chưa hoàn toàn yên tâm về cơ đồ mới được gây dựng của mình. Ông muốn triệt tiêu tận gốc mầm mống phục hưng của dòng họ chúa Nguyễn, bèn cho người đi tìm các phần mộ của các vị chúa Nguyễn từ đời Nguyễn Hoàng trở đi và cho đào tung hài cốt lên, xử trảm hài cốt và mỗi phần cho vứt mỗi nơi. Ông cho rằng làm như vậy để từ nay sự hưng thịnh của con cháu của chúa Nguyễn không bao giờ khôi phục được nữa.

Sau này, khi Nguyễn Ánh đánh bại triều đình Tây Sơn và lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, ông cũng đã cho quân lính truy tìm và khai quật mộ vua Quang Trung và đã trả thù cho tổ tiên của mình bằng đúng cách đó. Gia Long nói rằng: ” Ta vì chín đời mà trả thù.” Và có lẽ, chính mối thù này đã là một kinh nghiệm đau thương mà các vua nhà Nguyễn không bao giờ muốn lập lại.

Vì thế, khi xây lăng mộ, vị trí thi hài của nhà vua luôn được giữ bí mật. Tất nhiên, đây chỉ là một câu chuyện bên lề lịch sử mà tôi cung cấp thêm cho quý vị, còn thực hư như thế nào thì trước nay lịch sử luôn có những dị bản. Và nếu quý khách muốn tìm hiểu thêm, thì tôi chắc chắn rằng còn có rất nhiều điều thú vị chưa được hé mở đằng sau những lăng mộ như thế này. Tiếp theo quý khách hãy theo chân đến thăm khu tẩm điện.

Hiện giờ chúng ta đang đứng trước điện Hòa Khiêm. Từ đây nhìn ra đoàn có thể nhìn thấy Khiêm Cung Môn hay còn gọi là cổng Tam Quan, gồm 2 tầng: tầng dưới có 3 cổng vào, cổng ở giữa dành cho nhà vua nhưng khi vua băng hà thì cánh cổng này cũng được đóng lại. Hai bên là 2 cổng dành cho quan văn và quan võ. Đoàn chúng ta vừa đi qua cổng dành cho quan văn. Như vậy quý khách vừa được làm quan văn trong vài giây đấy phải không ạ.

Tầng trên của Khiêm Cung Môn là nơi dành cho nhà vua vọng cảnh đất trời mỗi lúc nhàn rỗi. Trên nóc cổng còn có hình 2 con rồng đang trong tư thế “lưỡng long chầu nguyệt”. Hai bên tả hữu cả đoàn là Pháp Khiêm và Lễ Khiêm, 2 dãy nhà dành cho quan văn và quan võ theo hầu.

Còn phía sau của đoàn là Hòa Khiêm Điện như lúc nãy tôi đã giới thiệu với đoàn. Đây là nơi vua làm việc khi còn sống. Và khi vua mất đi, nơi này được sử dụng làm nơi thờ vua và hoàng hậu. Khiêm Cung được xem là hành cung thứ hai của nhà vua. Tự Đức sống tại nơi này còn nhiều hơn cả ở Đại Nội. Và khác với khu vực lăng mộ được xây dựng bằng bia đá thanh, các công trình ở tẩm điện đều được xây dựng bằng gỗ tạo cho khu vực này có sự gần gũi với thiên nhiên.

Bây giờ mời đoàn theo tôi vào bên trong điện, tôi sẽ giới thiệu với đòan phần nội thất điện. Chỉ xin quý khách lưu ý một điều chúng ta vui lòng không chụp hình bên trong nội thất.

Nào, bây giờ xin quý khách đứng bên tay phải tôi, tôi sẽ giới thiệu lần lượt từ ngoài vào trong. Đầu tiên sẽ là án thờ ở vị trí ngoài cùng, tiếp theo là bàn thờ, ở vị trí thứ 3 là chiếc sập nơi vua dùng để làm việc với bá quan văn võ. Bởi vì khác với các vua khác của triều Nguyễn, Tự Đức là vị vua sức khỏe từ nhỏ đã không được tốt, tư chất yếu đuối, do đó vua không dùng Ngai. Ông chỉ dùng chiếc sập này cùng vài chiếc gối kê để tựa vào đó tiếp các quan thần. Bên trong cùng là khám thờ, nơi để bài vị của vua bên phải và hoàng hậu Lệ Thiên Anh ở bên trái.

Bên này là là nơi trưng bày đồ ngự dụng của vua bao gồm 1 đôi hài, 1 tập thơ, 1 đôi đũa kim giao, loại đũa này có công dụng thử độc trong thức ăn. Mỗi bữa ăn của nhà vua trước đây khoảng 30 đến 50 món. Mỗi món sẽ được nấu trong các niêu đất nhỏ và đều được ghi tên người nấu lên trên từng món nhằm đề phòng có kẻ hạ độc trong thức ăn của nhà vua thì dễ dàng truy ra manh mối. Tuy nhiên điều này khá hy hữu. Vì trước khi vua dùng bữa sẽ có một vị thái giám dùng đũa kim giao như tôi đã nói ở trên để thử độc sau đó nhà vua mới dùng ngự thiện. Bên dưới còn có vài bình gốm cố……

Ngoài ra khu vực này còn trưng bày một số bức tranh về cảnh sinh hoạt, tàu thuyền trên sông. Trong đó còn có vài bài thơ của vua Thiệu Trị mà Tự Đức đã chọn ra và đề lên.

Tiếp theo là chiếc gương. Đây là một trong những chiếc gương đầu tiên mà các cung tần mỹ nữ đã sử dụng trước kia. Đây cũng là món quà có giá trị mà Pháp đã tặng nhà vua. Trước kia khi muốn soi gương các vị cung phi chỉ soi trên mặt nước hay chỉ trên gỗ bóng là chính. Trước đây trong điện còn trưng bày 1 chiếc đồng hồ bàn đây cũng là món quà người Pháp tặng cho nhà vua. Song bây giờ người ta đã di dời nó khỏi Hòa Khiêm.

Tôi đã giới thiệu với cả đoàn về toàn bộ nội thất của Hòa Khiêm. Bây giờ mời đòan theo lối này, tôi sẽ đưa đoàn tham quan các công trình khác của khu tẩm điện.

Đây là Minh Khiêm Đường, được xây dựng vào thế kỷ 19, có thể nói đây là nhà hát cổ nhất Việt Nam. Tuổi đời của nhà hát này còn lâu hơn cả Duyệt Thị Đường mà hôm qua đoàn đã được giới thiệu trong khu vực Đại Nội. Đây cũng là nhà hát duy nhất được xây dựng trong lăng. Nó làm cho lăng Tự Đức khác biệt so với các lăng vua Nguyễn khác. Tự Đức không chỉ là ông vua của thơ mà còn của nhạc. Ông đã viết khá nhiều vở tuồng và cho diễn tại Minh Khiêm Đường. Nhà vua thường ngồi cuối sân khấu theo dõi vở kịch, còn khu vực có rèm che chỉ là nơi vua giả ngồi. Đây là cách đánh lừa những kẻ muốn hành thích vua.

Phía trên sân khấu chính là “nhị thập bát tú”, gồm 28 vì sao. Trước đây trên các vì sao này có gắn các khối thủy tinh nhỏ; và khi nhà vua xem tuồng, tất cả các cửa của Minh Khiêm sẽ được đóng kín. Bên trong người ta sẽ thắp nến, ánh nến từ bên dưới hắt lên cùng với các khối thủy tinh sẽ tạo ra một khung cảnh lung linh huyền ảo cho nhà hát. Song giờ đây các khối thủy tinh này đã bị lấy mất.

Rời khỏi Minh Khiêm Đường mời đoàn theo tôi chúng ta sang thăm khu vực Lương Khiêm Điện. Xưa kia khu vực này là nơi vua nghỉ ngơi. Về sau nó được sử dụng làm nơi thờ tự bà Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Bà là người có công với đất nước. Chính bà là người giúp đỡ nhà vua rất nhiều trong việc cai trị đất nước.

Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có một bệnh viện lớn mang tên bà đó chính là bệnh viện Từ Dũ. Và Tự Đức cũng là một người con rất hiếu thảo. Mỗi ngày ông đều đến vấn an mẹ ba lần, chỉ ngoại trừ những lúc nhà vua bị ốm đau. Nhìn sang phía tay trái, đoàn sẽ nhìn thấy nhiều bài vị. Đây là những bài vị của các vị phi tần đã từng được hầu hạ vua và họ là những người qua đời trước vua. Trước kia, những bài vị này được đặt ở Chí Khiêm Đường, nơi mà đoàn đã được giới thiệu lúc nãy. Nhưng qua thời gian cùng với chiến tranh công trình này đã bị hư hỏng rất nặng. Vì vậy người ta đưa một số bài vị vào thờ ở đây.

Tiếp theo là khu vực Ôn Minh Đường, là nơi cất giữ đồ ngự của vua. Đi dọc hành lang Ôn Minh Đường, chúng ta sẽ đến khu vực dành cho 10 vị phi tần đứng đầu của vua Tự Đức. Tiếp nữa là Trì Khiêm và Y Khiêm Điện, nơi ở của các cung phi của nhà vua khi còn sống. Và khi vua băng hà thì các vị phi tần này cũng ở lại đây để hương khói, coi sóc lăng mộ nhà vua. Tuy nhiên thời gian đã làm cho nơi này chẳng còn lại gì ngoài nền gạch và một vài bức tường không còn nguyên vẹn. Đây cũng là công trình cuối cùng trong khu vực tẩm điện.

Qua tổng thể toàn bộ các công trình của lăng đoàn sẽ thấy được tính cách vị vua này. Nó cũng mềm mại uyển chuyển như cách bố trí và kiến trúc của lăng. Người ta nói lăng tẩm cũng làm toát lên tính cách chủ nhân của nó. Ở lăng Tự Đức, quý khách sẽ bắt gặp sự mềm mại. Còn đối với lăng Minh Mạng, toàn bộ kiến trúc ở đây sẽ cho quý vị một cái nhìn khác. Cũng như lăng vua Khải Định, nó cũng mang một nét đặc trưng riêng. Nếu có dịp tôi sẽ đưa đoàn lên thăm quan các lăng này để quý khách cảm nhận nét khác biệt trong tính cách của họ.

Chúng ta vừa ngược dòng thời gian để tìm về với vị vua của thơ và nhạc, vị thi sĩ lãng mạng sẽ được yên nghỉ vĩnh viễn với thiên nhiên, giữa rừng thông xanh bạt ngàn vi vút suốt bốn mùa.

Thưa cả đoàn tôi vừa đưa đoàn đi tham quan toàn bộ các công trình trong tẩm điện của khu vực lăng Tự Đức. Như vậy thời gian làm việc với tôi và cả đoàn đến đây là kết thúc,cảm ơn và chúc đoàn một chuyến đi vui vẻ.

Xem thêm bài thuyết minh tương tự : tại đây

Luật du lich 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Khi đó, chương trình đào tạo ngắn hạn cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch sẽ tiến hành đào tạo theo chương trình mới trên toàn quốc. Bạn quan tâm thông tin lớp nghiệp vụ hướng dẫn viên du lịch, hồ sơ thủ tục xin cấp thẻ, đổi thẻ hết hạn…vui lòng inbox hoặc liên hệ : 0978468620, 0979868657 để biết thêm thông tin hoặc xem thông tin tại đây

Cảm ơn đã xem tin! 

Vì sao Đường Tăng lại đi tây trúc thỉnh kinh?

0

VÌ SAO ĐƯỜNG TĂNG LẠI ĐI TÂY TRÚC THỊNH KINH?

Chúng ta là một Hướng dẫn viên du lịch, ngoài những kiến thức về du lịch văn hóa… Chủ đề về phật giáo là một chủ đề không thể thiếu trong mỗi HDV chúng ta. Nhiều khách hàng hiện nay cực kỳ thú vị với những mẫu chuyện nhỏ về nhà Phật như 1 + 2 = 3, chuyện về Phật di lặc… luôn làm hài lòng những vị khách khó tính nhất. Và chủ đề ấy nếu biết “Khai thác chọn lọc” thì bạn có thể kể ngày này qua ngày khác mà không gây nhám chán cho đoàn. Hôm nay xin chia sẻ một mẩu chuyện nhỏ về Đường Tăng (Huyền Trang) cho anh em tham khảo.” (Trích lời vietbalo)

Trong “Tây Du Ký” thầy trò Đường tăng bao gồm 4 người. Ngoại trừ sư phụ Đường Tam Tạng còn có 3 đệ tử, đều có xuất thân thần thánh: Một là Tôn Ngộ Không, là một con khỉ đá rất thần thông, tự phong là Tề thiên đại thánh. Hai là Trư Ngộ Năng, vốn là Thiên bồng nguyên soái của thiên đình. Và ba là Sa Ngộ Tịnh, vốn là Quyển liêm tướng quân. Ngoài ra, con ngựa mà Đường tăng cưỡi cũng vốn là thái tử của long vương bị đày do từng lập mưu ăn thịt Đường tăng.

Truyện kể rằng, bốn thầy trò Đường tăng đã có một cuộc hành trình ròng rã 14 năm. Vượt qua rất nhiều kiếp nạn cuối cùng mới đến được đất Phật, gặp Phật tổ và xin kinh. Khi thỉnh được kinh, có tám vị Kim cương cưỡi mây theo hộ tống về kinh đô Trường An. Khi đọc “Tây Du Ký”, ai cũng biết ba vị đệ tử thần thông, xuất thân từ tướng nhà trời, rồi chuyện yêu quái ăn thịt người,… đều chỉ là chuyện bịa đặt và tưởng tượng ra cả. Tuy nhiên, những gì sử sách còn ghi chép được cho thấy, chuyến thỉnh kinh Tây Thiên kéo dài 14 năm của Đường Tam Tạng được miêu tả trong “Tây Du Ký” lại hoàn toàn có thực.

Sử sách còn ghi lại rằng, Đường Tam Tạng, hay còn gọi là Đường Huyền Trang vốn tên thật là Trần Vỹ. Sinh vào khoảng năm Nhân Thọ thứ 2 đời Tùy Văn Đế Dương Kiên (tức năm 602) tại huyện Câu Thị, nay là tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Do hai người anh trai của Trần Vỹ xuất gia làm sư ở chùa Tịnh Thổ Lạc Dương nên từ nhỏ Trần Vỹ đã theo anh tụng niệm kinh Phật, đồng thời đọc cả sách Nho, Đạo…

Vào thời bấy giờ, việc xuất gia đều do triều đình quản lý. Những người muốn xuất gia phải tham gia một kỳ thi, gọi là kỳ thị “Độ tăng”. Ai đủ tiêu chuẩn mới được công nhận cho sư. Khi 10 tuổi, Trần Vỹ theo gót anh trai đăng ký tham gia kỳ thi độ tăng này. Trong danh sách 27 người đứng đầu kỳ thi ở Lạc Dương, Trần Vỹ nhỏ tuổi nhất. Vì vậy, quan chủ khảo mới cho gọi Trần Vỹ tới hỏi: “Còn nhỏ tuổi vậy mà đã xuất gia, mục đích xuất gia của ngươi là gì?”. Không ngờ, Trần Vỹ bình tĩnh đáp: “Tôi muốn xa thì nối gót Như lai, gần thì làm rạng rỡ những gì mà Ngài để lại”.

Quan chủ khảo ban đầu vốn không định cho Trần Vỹ đậu. Nhưng khi nghe đối đáp, quyết định đặc cách cho cậu bé 10 tuổi làm sa di (hòa thượng mới xuất gia), thử thách trong vòng 3 năm. Đến năm 13 tuổi, Trần Vỹ chính thức xuất gia. Hiệu là Huyền Trang, cùng hai người anh của mình tu tại chùa Tịnh Thổ. Trong suốt thời kỳ động loạn cuối đời Tùy đầu đời Đường, Huyền Trang cùng hai người anh của mình đã đi từ Lạc Dương tới Trường An rồi Tứ Xuyên tầm sư học đạo.

Đến năm 21 tuổi, Huyền Trang đã có một cuộc tranh luận với một đại sư nổi tiếng ở Trường An lúc bấy giờ về kinh Đại thừa. Với trí tuệ và thiên tài trong việc lý giải Phật pháp, tiếng tăm của Huyền Trang sau cuộc tranh luận ấy nổi như cồn, trở thành một nhân vật đình đám trong giới Phật môn. Tuy nhiên, vì đọc nhiều và học nhiều nơi nên Huyền Trang phát hiện ra rằng, mỗi người lại hiểu kinh Phật theo một kiểu khác nhau, có rất nhiều mâu thuẫn.

Tìm hiểu nguyên nhân, Huyền Trang phát hiện ra rằng, kinh điển nhà Phật được truyền sang Trung Quốc vẫn chưa được dịch hết. Trong khi đó, những đại sư thế hệ trước ở Trung Quốc lại chủ yếu dịch theo ý nghĩa là chính dẫn đến mỗi người giải thích theo một cách, mỗi người hiểu theo một kiểu. Huyền Trang cho rằng, để giải quyết tình trạng này, thống nhất cách hiểu kinh điển Phật giáo ở Trung Quốc thì chỉ có một cách là toàn bộ kinh điển Phật giáo phải được dịch chính xác và đầy đủ từ các bản tiếng Phạn.

Chính vì vậy, Huyền Trang quyết định thực hiện một chuyến “du học” sang Ấn Độ. Nơi phát nguyên của Phật giáo để nguyên văn kinh Phật, thực hiện hoài bão của mình.

Vào năm 629, năm Trinh Quán đời Đường, Huyền Trang quyết định lên đường đi về phía Tây. Tuy nhiên, vào thời đó, những người muốn đi về phía Tây Vực đều phải được sự cho phép của Hoàng đế. Huyền Trang cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, ông hai lần dâng biểu lên vua Đường lúc bấy giờ là Lý Thế Dân đều không được chấp nhận.

Không giống như trong “Tây Du Ký”, Đường Tam Tạng trước khi lên đường được vua Đường nhận làm huynh đệ, tặng cho chiếc bát vàng, áo cà sa quý và bày tiệc rượu tiễn ra tận cửa thành, Huyền Trang một mình cưỡi con ngựa già lên đường đi về phía Tây mà không hề được sự ân chuẩn của Hoàng đế Đại Đường.

Chuyến đi của Huyền Trang gặp phải không ít khó khăn vất vả. Có khi Huyền Trang phải nhịn đói nhịn khát suốt bảy tám ngày ròng rã giữa một trảng sa mạc trời nắng chang chang, không một bóng cây cũng không có người qua lại. Có khi lại gặp phải bọn thổ dân ăn thịt người bắt giữ.

Tuy nhiên, Huyền Trang tự nói với mình rằng: “Thà đi về phía tây mà chết chứ quyết không quay về đông mà giữ lấy mạng sống”. Khi đi qua Cao Xương, một quốc gia nhỏ ở Tân Cương lúc bấy giờ, quốc vương nước này đã mời Huyền Trang ở lại làm quốc sư, truyền giảng Phật pháp. Tuy nhiên, vàng bạc châu báu và quyền lực không làm chùn bước Huyền Trang. Ông quyết thực hiện chuyến hành hương cầu Phật của mình.

Cuộc hành trình kéo dài suốt hai năm, vượt qua Tân Cương, Thổ Nhĩ Kỳ, Afghanista, cuối cùng Huyền Trang cũng đến được biên giới của Ấn Độ. Năm 30 tuổi, Huyền Trang đến chùa Na Lan Đà của Ấn Độ cầu học, được Giới Hiền đại sư nhận làm đệ tử. Na Lan Đà khi đó là nơi đào tạo tăng sư lớn nhất của Ấn Độ còn Giới Hiền đại sư là vị cao tăng đức cao vọng trọng nhất trong chùa lúc bấy giờ.

Huyền Trang ở lại chùa Na Lan Đà theo học Giới Hiền 6 năm, chuyên tập nghiên cứu pháp tướng và học chữ Phạn. Sau sáu năm, Huyền Trang được coi là một trong 10 đệ tử xuất sắc nhất của Giới Hiền. Sau khi đã kết thúc khóa học ở chùa Na Lan Đà, Huyền Trang xin Giới Hiền cho mình đi chu du Ấn Độ. Ông đã dành rất nhiều thời gian, thăm thú khắp nơi đặc biệt là các di tích đạo Phật trên khắp Ân Độ.

Sau khi trở lại chùa Na Lan Đà, Huyền Trang được Giới Hiền cho giảng kinh trong chùa cho các sư tăng. Danh tiếng Huyền Trang nhờ vậy được cả giới Phật môn Ấn Độ biết tới. Giới Nhật vương khi đó là chủ liên minh các quốc gia Ấn Độ nghe tiếng Huyền Trang còn cho mời đến gặp mặt.

Năm Huyền Trang 41 tuổi, tức vào năm 643, sau 12 năm lưu học Ấn Độ, ông có ý trở về. Giới Nhật vương biết chuyện đã tổ chức một buỗi tiễn đưa long trọng có mặt của 18 vị quốc vương các quốc gia Ấn Độ. Sau đó, Giới Nhật vương vẫn không muốn Huyền Trang ra đi, liên tục mở tiệc khoản đãi, còn có ý định mời ông làm quốc sư. Tuy nhiên, Huyền Trang nhất định từ chối đòi trở về.

Ngày 25 tháng giêng năm Trinh Quán thứ 19 nhà Đường, Huyền Trang về đến Trường An. Sử chép rằng, những tín đồ đạo Phật biết Huyền Trang từ Thiên Trúc trở về kéo ra đón tiếp chật đường. Đường Thái Tông Lý Thế Dân biết chuyện, cho mời Huyền Trang đến gặp, khuyên ông nên hoàn tục, dùng tri thức mình học được ở Thiên Trúc làm quan giúp sức cho triều đình.

Huyền Trang đã mỉm cười từ chối, nói mình xuất gia từ nhỏ, một lòng cầu Phật, không có ý định làm quan. Không chấp nhận lời đề nghị làm quan của vua Đường nhưng cuộc gặp gỡ ấy đã giúp Huyền Trang thực hiện được hoài bão của mình từ 15 năm trước. Lý Thế Dân đã đồng ý cung cấp tiền để Huyền Trang tổ chức dịch lại toàn bộ kinh điển Phật giáo mà ông mang về từ Ấn Độ nhằm thống nhất cách hiểu kinh điển Phật giáo ở Trung Quốc lúc bấy giờ.

Được chu cấp của triều đình, Huyền Trang sau đó đã sống tại chùa Hoằng Phúc ở Trường An để tổ chức dịch kinh Phật. Tháng 5 năm đó, ông và các cao tăng từ khắp nơi trong cả nước bắt đầu dịch bộ “Đại bồ tát tạng kinh” gồm 20 cuốn. Chín tháng sau đó, ông đã hoàn thành.

Suốt mười chín năm ròng rã sau đó, (từ 645-664) Huyền Trang đã dịch được tất cả bảy mươi lăm bộ kinh, gần một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển từ tiếng Phạn dịch qua tiếng Hán. Ông còn dịch một bộ “Ðạo đức Kinh” và “Ðại Thừa khởi tín luận” từ chữ Hán ra chữ Phạn. Ngoài ra, Huyền Trang cũng viết một bộ “Đại Đường Tây Vực ký” gồm 12 quyển ghi lại đầy đủ những điều ông đã thấy, đã biết trong cuộc hành trình kéo dài 17 năm ông “du học” Ấn Độ.

Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Huyền Trang viên tịch tại chùa Ngọc Hoa, vì bệnh nặng. Thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 cùng năm, thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Sử chép, ngày cử hành tang lễ có đến một triệu người ở Trường An và các vùng lân cận theo về để đưa tiễn. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần Huyền Trang. Có lẽ từ xưa đến nay đến đế vương cũng chưa có vị nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị thánh tăng có một không hai này.

(Nguồn: Người đưa tin)

Xem thêm các bài thuyết minh khác : tại đâ

Thắc mắc cần giải đáp về lớp học nghiệp vụ hướng dẫn viên du lịch, thủ tục hồ sơ xin cấp thẻ, thẻ hết hạn xin cấp lại thẻ mới, những thay đổi trong luật du lịch 2018. Vui lòng inbox hoặc liên hệ : 0978468620 , 0979868657 ( ms Nhi ) 

Cảm ơn đã xem tin! 

 

 

Phượng Hoàng Trung Đô và khát vọng dở dang của vua Quang Trung

0

Cũng giống như sự nghiệp của Quang Trung, Phượng Hoàng Trung đô – kinh đô đặt tại đất Nghệ An của triều đại Tây Sơn đã phải chịu cảnh dang dở do sự ra đi đột ngột của vị hoàng đế tài ba.

Những kinh đô trong lịch sử dân tộc 

Trong lịch sử dựng nước lâu dài của dân tộc ta, có những vùng đất do đặc điểm đặc biệt của nó đã vinh dự được các triều đại chọn làm kinh đô. Đầu tiên, vào thời kỳ đất nước Việt Thường, kinh đô đóng ở vùng Ngàn Hống (nay thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) mà chúng tôi đã có lần giới thiệu. Đến thời đất nước Văn Lang, kinh đô đóng ở Văn Lang, còn gọi là Phong Châu (nay là TP Việt Trì, Phú Thọ).


Thời An Dương Vương, kinh đô đóng ở Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Thời Hai Bà Trưng, đóng đô ở Mê Linh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). Ngô Quyền giành lại độc lập tự chủ cho dân tộc, trở lại đóng đô ở Cổ Loa, kinh đô cũ của An Dương Vương. Hai triều đại Đinh – Lê chọn đóng đô ở Hoa Lư (nay là Trường Yên, Ninh Bình).

Các triều đại Lý – Trần – Lê – Mạc đều đóng đô ở Thăng Long (nay là Hà Nội). Nhà Hồ đóng đô ở Tây Đô (nay là Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân (nay là TP Huế).
Năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) chọn đóng đô ở Hà Nội, tức kinh đô Thăng Long của các triều đại Lý – Trần – Lê xưa.

Phượng Hoàng Trung đô và khát vọng của Quang Trung

Ngay từ năm 1788, khi chưa lên ngôi, Quang Trung đã để ý đến việc tìm đất xây dựng kinh đô ở Nghệ An. Trong chiếu gửi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp về việc chọn đất xây dựng kinh đô, Quang Trung đã viết: “Chiếu truyền cho La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp được biết: Ngày trước ủy thác cho Phu tử về Nghệ An xem đất đóng đô cho kịp kỳ này ngự giá ở Bắc về trú. Sao ta về tới đây thấy chưa được việc gì? Nay ta hãy hồi giá về Phú Xuân cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Vậy ban chiếu xuống cho Phu tử nên sớm cùng ông Trấn thủ Thận tính toán và làm việc xem đất đóng đô tại Phù Thạch”.

Tờ chiếu đề ngày 1 tháng 6 năm Mậu Thân (1788). Như vậy, việc giao trách nhiệm chọn đất đóng đô phải diễn ra trước đó.
Người ta cho rằng, sở dĩ Quang Trung chọn đất đóng đô ở Nghệ An là do Nghệ An là quê hương, gốc gác của ông. Điều đó chỉ đúng một phần. Bởi nếu thế thì sao ông không chọn Tây Sơn (Bình Định). Nơi sinh ra và trưởng thành của ông, lại là nơi ông phất cờ khởi nghĩa?

Chúng tôi cho rằng, sở dĩ Nguyễn Huệ chọn Nghệ An để đóng đô bởi hai lẽ. Một là, nơi đây đất rộng người đông, là đất căn bản của nước nhà. Ngay từ thời Trần, khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai (1285), chúng chiếm được Kinh thành Thăng Long và hầu hết miền Bắc. Triều đình nhà Trần đã phải lui về Thiên Trường (Nam Hà) rồi lại phải chạy vào Thanh Hóa. Trần Nhân Tông vẫn tin tưởng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi vẫn còn đất căn bản Nghệ An: “Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” (ở châu Hoan Diễn ta còn 10 vạn quân).
Thực tế, nhà Trần đã giải phóng đất nước sau đó không lâu.

Thời Lê, đất Nghệ An được coi là đất thang mộc của triều đình. Lính bảo vệ kinh thành đều lấy ở Thanh Nghệ. Ta nhớ rằng khi ra Bắc diệt quân Thanh, Quang Trung đã dừng lại ở đây để tuyển quân. Nhân dân Nghệ An (bao gồm Nghệ An – Hà Tĩnh bây giờ) đã nô nức lên đường tòng quân, đóng góp vào chiến thắng thần tốc của Quang Trung.

Hai là, về địa lý, Nghệ An cách Thăng Long 300km, cách Phú Xuân trên 300km, nằm vào khoảng giữa rất cân đường ra vào (lúc bấy giờ vùng đất từ Quảng Ngãi trở vào thuộc quyền kiểm soát của Nguyễn Nhạc). Trong chiếu gửi Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ cũng viết: “Nay kinh đô ở Phú Xuân thì hình thế cách trở, ở xa trị Bắc Hà địa thế khó khăn. Theo đình thần nghị rằng chỉ đóng đô ở Nghệ An là đường vừa cân, vừa khống chế được trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện tiện việc đi về” (chiếu đề ngày 3 tháng 9 năm Thái Đức 11, tức năm 1788).

Cũng trong tờ chiếu đó, Nguyễn Huệ còn ghi nhận ở đây “hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây dựng kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy!”. Cũng vì nóng lòng muốn dời đô ra Nghệ An mà Nguyễn Huệ đã đích thân ra tận nơi để đốc thúc công việc (7/1789).

Sau khi Quang Trung mất, việc xây dựng Phượng Hoàng Trung đô bị gác lại. Và đáng tiếc là triều đình Quang Toản không hề nhắc đến việc dời đô ra Nghệ An như ý nguyện của Quang Trung.

Tuy nhiên, Nguyễn Thiếp lại là người không muốn Nguyễn Huệ đóng đô ở Nghệ An. Có lẽ ông sợ việc xây dựng kinh đô sẽ làm khổ nhân dân địa phương. Chính vì vậy mà trong một tờ tấu gửi Quang Trung, ông đã nại ra rằng, ở chỗ đó đất chật hẹp, kề núi kề sông, bờ sông lại hay bị sạt lở. Việc đóng đô là không thuận lợi.


Quang Trung đã trả lời rằng: “Nếu bảo rằng những chỗ như Phượng Hoàng, Khánh Sơn không được đô hội thì sao chẳng tìm chỗ tốt khác cho thỏa ý quả cung trông mong?… Nhớ buổi hồi loan kỳ trước lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng mở xem địa đồ, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy” (trích chiếu của Quang Trung đề ngày 3 tháng 9 năm Mậu Thân (1788).

Đọc nội dung tờ chiếu, ta có thể thấy được khát vọng của Quang Trung trong việc đóng đô ở Nghệ An. Ta có thể thấy rõ ý của ông, muốn nói rằng, không chỗ này thì chỗ khác, không lẽ đất Nghệ An rộng lớn như thế mà không chọn được chỗ đất đẹp để đóng đô hay sao? Từ những tờ chiếu của Quang Trung, ta thấy ông quyết tâm và tha thiết chọn đất đóng đô ở Nghệ An như thế nào!

Phượng Hoàng Trung đô dở dang như sự nghiệp nhà Tây Sơn.
Lựa chọn, trao đổi mãi, cuối cùng Nguyễn Thiếp cũng chọn được địa điểm để xây dựng kinh đô. Đó là vùng đất nằm giữa Núi Quyết và núi Kỳ Lân. Tên dân gian là Rú Mèo, thuộc làng Dũng Quyết, xã Yên Trường, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An (nay thuộc phường Trung Đô, TP Vinh)

Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì ở đây triều đình Tây Sơn đã xây dựng được một số công trình như đắp thành đất xung quanh, xây dựng Lầu Rồng ba tầng, điện Thái Hòa và hai dãy hành lang: “Quang Trung liền sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ đá, gạch ngói để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp thành đất xung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong. Dựng tòa lầu ba tầng cùng hai dãy hành lang, để phòng dùng đến khi có lễ triều hạ” (trích Hoàng Lê nhất thống chí).

Việc xây dựng Phượng Hoàng Trung đô đang xúc tiến thì Quang Trung đột ngột qua đời (1792). Ngay trước khi mất, Quang Trung còn di chúc lại cho triều đình sớm dời đô ra Nghệ An: “Trước khi mất, Nguyễn Huệ cho triệu viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về kinh và dặn rằng: “Sau khi ta mất, nên trong một tháng táng cho xong. Việc tang làm qua loa mà thôi. Chúng ngươi nên giúp lập Thái tử sớm dời đô ra Nghệ An để khống chế thiên hạ. Nếu không thế thì quân Gia Định sẽ tới, chúng ngươi không có chỗ chôn thân” (trích Đại Nam chính biên liệt truyện).

Thế nhưng, sau khi Quang Trung mất, việc xây dựng Phượng Hoàng Trung đô bị gác lại. Triều đình Quang Toản không hề nhắc đến việc dời đô ra Nghệ An như ý nguyện của Quang Trung trước khi mất.

Vào năm 1801, sau khi Phú Xuân mất, triều đình Quang Toản kéo nhau ra Bắc Hà, đóng đô ở Thăng Long. Mùa hè năm đó, Lầu Rồng ba tầng tự nhiên đổ sụp, như điềm báo trước về sự sụp đổ không thể tránh khỏi của triều đại Tây Sơn: “Tháng 6 mùa hè năm ấy (tức 1801), thình lình viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin là Lầu Rồng ba tầng ở đấy tự dưng đổ sụp, những người nghe tin đều cho là điềm chẳng lành” (trích Hoàng Lê nhất thống chí).
Những dấu tích mờ nhạt về Phượng Hoàng Trung đô

Đến nay, tuy những dấu tích còn lại không nhiều, nhưng nhờ những tư liệu tìm được có thể giúp hình dung phần nào về kinh đô dang dở này. Trải qua mưa nắng thời gian và sự phá hoại của con người (nhất là dưới triều Nguyễn), Phượng Hoàng Trung đô chỉ còn dấu tích mờ nhạt ở phía Nam TP Vinh, Nghệ An.

Trong khoảng những năm 1940, học giả Hoàng Xuân Hãn đã từng đến khảo sát toà thành này và mô tả: “Ngày nay khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo còn thấy dấu tích một toà thành cũ hình gần tam giác.

Dấu thành và đường hào đang còn rõ. Cửa Tiền ở phía Nam. Núi Mèo (Kỳ Lân) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt đông bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành. Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước có sông Cồn Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết đều là hào và thành thiên nhiên. Ở giữa thành còn dấu thành trong và nền nhà. Nhất là có nền cao ba bậc ở phía Bắc mà ngày sau, đời Nguyễn dùng làm nền Xã Tắc. Đó là chỗ Quang Trung ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An” (trích La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 2, tr.1050).

Xem thêm nhiều bài thuyết minh du lịch khác : tại đây 

Hướng dẫn viên du lịch – Nghề đòi hỏi kỹ năng giao tiếp tốt

0

HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH – NGHỀ ĐÒI HỎI KỸ NĂNG GIAO TIẾP TỐT

Một công việc đòi hỏi bạn phải biết nhiều, hiểu rộng về văn hóa và tâm lý con người; đặc biệt là luôn tự tin trong giao tiếp và biết cách quản lý con người, tổ chức, sắp xếp “nơi ăn chốn ở” cho du khách. Đó chính là những nét đặc trưng của nghề Hướng dẫn viên du lịch. Thế nào là nghề hướng dẫn viên du lịch?

Hướng dẫn viên du lịch là người sử dụng ngôn ngữ đã lựa chọn để giới thiệu và giải thích cho du khách các di sản văn hóa và thiên nhiên của một vùng cụ thể được các cơ quan liên quan công nhận.

Hay hiểu theo một cách thương mại hơn, hướng dẫn viên du lịch là người thực hiện các điều khoản được ký kết trong hợp đồng cung ứng dịch vụ lữ hành, giúp doanh nghiệp lữ hành thu được lợi nhuận kinh tế và giúp du khách hiểu biết thêm về điểm đến (điểm tham quan) thông qua chuyến đi.

Du lịch là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam. Vì thế, triển vọng của nghề hướng dẫn viên du lịch vô cùng tiềm năng. Làm hướng dẫn viên du lịch, bạn sẽ được đi đây đó nhiều, được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mọi miền đất nước, được tiếp xúc với nhiều nền văn minh trên thế giới, được ở khách sạn “nhiều sao”. Nếu bạn là một hướng dẫn viên giỏi chuyên môn nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ thì bạn sẽ có nhiều cơ hội để chứng tỏ năng lực của mình.

Bước vào nghề có dễ?

Không một công việc nào khi mới bắt đầu là dễ dàng và được thuận lợi như mình mong muốn. Đặc biệt là đối nghề hướng dẫn viên thì vạn sự khởi đầu muôn lần khó và thử thách luôn “đeo bám” trong suốt quá trình hành nghề.

Bạn phải tập thích nghi với việc đi nhiều, giờ giấc không ổn định, vắng nhà thường xuyên, có khi cả ngày lễ, tết cũng khó có thể ở nhà.

Khi đứng trước du khách, hướng dẫn viên “sắm” khá nhiều vai: vừa phải là một nhà văn hóa, một nhà sử học, một nhà ngoại giao và là một nhà kinh doanh tiếp thị sắc sảo.

Hãy hình dung công việc của một hướng dẫn viên như công việc của một vị đại sứ, giới thiệu hình ảnh, nét đẹp, nét văn hóa và cái nhìn đúng đắn về con người và đất nước của mình. Bạn cần phải hết sức khéo léo để công việc diễn ra suôn sẻ, thuận lợi.

hdv du lichh

Để làm được điều đó, hướng dẫn viên du lịch phải tự trang bị cho mình một nền tảng văn hóa về đất nước, về địa phương thật vững, khả năng tinh thông ít nhất một ngoại ngữ và một bản lĩnh nghề nghiệp để bình tĩnh đối phó với những tình huống phát sinh khi dẫn tour.

Trở thành hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp

Để trở thành một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, bạn cần phải có được:

– Kiến thức về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc, từng địa phương và hiển rõ các địa danh du lịch, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử…

– Kỹ năng giao tiếp, ứng xử linh hoạt, có văn hóa. Ở kỹ năng này đòi hỏi bạn phải am hiểu kiến thức về tâm lý con người, văn hóa cũng như phong tục tập quán của từng địa phương, từng quốc gia khác nhau để có thái độ ứng xử, phục vụ du khách phù hợp. Trong giây lát bạn không thể thấu hiểu từng người trong hàng trăm người được. Vì thế, bạn phải thực sự linh hoạt và tinh tế trong giao tiếp và ứng xử.

– Kỹ năng tổ chức, điều hành tour, từ khâu dẫn đoàn đến thuyết minh, rồi sắp xếp bố trí nơi ăn nghỉ… làm hài lòng yêu cầu du khách.

– Thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt nếu nói được càng nhiều thứ tiếng càng tốt. Nếu thiếu khả năng về ngoại ngữ, cơ hội dẫn các đoàn khách quốc tế sẽ không đến với bạn và tất nhiên trong tuyển dụng, các công ty lữ hành luôn ưu tiên những ứng viên dẫn tour giỏi ngoại ngữ.

– Kiên trì, chịu khó và luôn hòa đồng với mọi người là đức tính cần có của một hướng dẫn viên du lịch. Là người “làm dâu trăm họ”, cùng lúc khó có thể làm hài lòng hết tất cả mọi người. Do đó, bạn sẽ là người luôn sẵn sàng đón nhận sự thiếu tế nhị từ du khách.

– Bạn bắt buộc phải hy sinh những sở thích hay thói quen riêng tư để hành nghề. Bạn vắng nhà liên miên, thường phải gặp gỡ và ở cạnh những người mới quen mà thời gian bạn ở với họ còn nhiều hơn bạn ở với gia đình mình.

– Bạn phải tỏ ra thật thông minh, nhanh nhẹn giải quyết công việc tạo cho khách tham quan sự yên tâm và tin tưởng nơi bạn. Kinh nghiệm được đúc rút sau mỗi chuyến đi tour sẽ giúp bạn không còn lúng túng trước những tình huống phát sinh ngoài dự kiến.

Muốn theo đuổi nghề này bên cạnh những kiến thức và kỹ năng như trên đã nói, bạn cần phải có sức khỏe và không được say xe. Bởi trong suốt chuyến đi, trong khi du khách thỏa sức thư giãn và ngắm cảnh thì bạn phải luôn giữ cho mình tỉnh táo và truyền đạt những hiểu biết của mình về từng địa danh một cách sống động linh hoạt, làm sao để vừa lòng tất cả mọi du khách, làm sao để không khí chuyến đi luôn sôi động, hòa đồng…

Chuyến đi có thành công hay không, du khách có cảm thấy thoải mái và tiếp nhận hình ảnh tốt về nơi mà họ đến hay không, vai trò của người hướng dẫn viên mang tính quyết định. Chính vì thế, nghề này yêu cầu rất cao ở khả năng giao tiếp và xử lý tình huống, là cơ sở nền tảng để bạn có thể trở thành một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp.

Nguồn: sưu tầm internet

 

Tâm lý khách du lịch- đặc điểm tâm lý khách quốc tế theo châu lục

1

Việc hiểu biết về tâm lý du khách giúp cho nhà kinh doanh du lịch, nhân viên phục vụ du lịch… hiểu biết được phần nào tâm lý chung của những người cần được phục vụ. Để từ đó có những biện pháp thích hợp, khắc phục, hoàn thiện năng lực chuyên môn, năng lực giao tiếp và rèn luyện các phẩm chất cần thiết để tự điều chỉnh tâm lý và hành vi của mình trong quá trình phục vụ du khách.

Đặc điểm tâm lý du khách quốc tế

Đặc điểm tâm lý khách quốc tế theo châu lục 

Có thể phân chia du khách thành 5 nhóm sau: Du khách châu Âu, du khách châu Á, du khách châu Mỹ, du khách châu Phi và du khách châu Đại Dương.

a. Du khách châu Âu

Châu Âu được biết đến với nền văn minh lâu đời và mức sống cao, trải qua quá trình lịch sử xây dựng văn hóa và kinh tế tương đối lâu đời. Đặc điểm tâm lý người cơ bản của người châu Âu như sau:

– Có lối sống duy lý, thích chinh phục, chế ngự, và cải tạo thiên nhiên môi trường xung quanh, bắt chúng phục vụ mục đích của con người. Đồng thời, họ có lối sống sôi động, thích hoạt động và di chuyển, không thích cuộc sống tĩnh tại.

– Nhận thức, tình cảm và hành vi của họ với môi trường và hoạt động du lịch rất tiến bộ. Họ đến từ những đất nước có nền kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển và mức sống người dân tương đối cao. Châu Âu là trung tâm kinh tế, văn hóa, KH-KT, giao lưu của các dân tộc trên thế giới.

– Đa số người châu Âu theo Thiên Chúa giáo. Vì thế, nhu cầu đến nhà thờ vào cuối tuần cầu nguyện là nhu cầu không thể thiếu  của họ. Hoạt động du lịch của họ do đó đã chịu ảnh hưởng, chi phối bởi màu sắc tôn giáo. Và trở thành những chuẩn mực trong cuộc sống.

– Họ có lối sống công nghiệp khẩn trương, kỷ cương, chế độ làm việc rất nghiêm túc. Vì thế khi đi du lịch, du khách châu Âu có yêu cầu rất cao đối với việc thực hiện kế hoạch, lịch trình chuyến đi, đòi hỏi phải rõ ràng, chính xác và đạt hiệu quả mong muốn.

– Đề cao chủ nghĩa cá nhân, tôn trọng tự do cá nhân và đánh giá cao tính tích cực của con người trong mọi hoạt động xã hội: trọng lý, nhẹ tình, có ý thức pháp luật và lòng tự trọng rất cao.

-Không thích nói chuyện về chính trị, đời tư, tuổi tác và thu nhập. Theo họ, đó là những thông tin cá nhân cần được tôn trọng và giữ bí mật khi giao tiếp.

– Khi đi du lịch họ thích lựa chọn loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch vui chơi giải trí. Nhằm giải tỏa những căng thẳng tâm lý do môi trường công nghiệp gây ra.

– Người châu Âu thích ăn bánh mì, uống cà phê, uống sữa với bánh ngọt và các món ăn lạnh. Họ không thích chế biến cầu kỳ, không mời chào nhau trong ăn uống.

– Họ rất thích âm nhạc, nhảy, múa, lễ hội. Vì vậy khi đi du lịch, họ có nhu cầu rất cao đối với các sản phẩm, dịch vụ này.

 

Trong giao tiếp, nghi lễ ngoại giao, người châu Âu thường có thói quen bắt tay, ôm hôn thân mật. Khi giao tiếp, ngoại giao với họ cần lưu ý một số quy tắc sau:

– Bắt tay: nhẹ nhàng cầm nắm cả các ngón tay, không lắc nhiều. Người cao tuổi, phụ nữ, người có địa vị cao trong xã hội thì đưa tay ra trước. Trong tình huống muốn thể hiện sự kính trọng, thì có thể đưa cả hai tay ra để bắt tay.

– Cái hôn: khi thực hiện nghi lễ ngoại giao thường hay hôn má (một hoặc hai má). Nếu khách là người có địa vị cao hơn thì hôn lên trán. Nếu là người yêu hoặc vợ chồng thì hôn môi.

-Tặng hoa: Trong nghi lễ ngoại giao, người châu Âu thường hay tặng hoa cho nhau. Ví dụ: ngày sinh nhật, ngày lễ, ngày tết, ngày cưới. Khi tặng hoa nên lưu ý: chỉ tặng theo số lẻ 3, 5, 7, 9 và tùy ý theo mối quan hệ mà lựa chọn màu sắc và kiểu hoa cho phù hợp. Ví dụ: tặng hoa cho người yêu thì dùng màu đỏ. Cho những người quen thì dùng bó hoa nhiều màu.

– Dùng nước hoa: đã thành thói quen đối với người châu Âu. Dùng nước hoa khi tiếp khách thể hiện sự tôn trọng, lịch sự đối với họ; đồng thời thể hiện địa vị bản thân

b. Du khách châu Á

Châu Á bao gồm 48 nước. Là một trong những khu vực có sự phát triển kinh tế rất năng động trên thế giới. Và là một trong những thị trường du lịch có nhiều tiềm năng. Đặc điểm tâm lý du khách châu Á như sau:

– Họ rất tôn trọng tự nhiên, và luôn có sự hợp tác, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau. Tính cộng đồng và lối sống trọng tình, nhẹ lý, dễ thông cảm và chia sẻ với nhau trong quan hệ, ứng xử.

– Nói chung, so các nước trong khu vực khác trên thế giới, nền kinh tế châu Á phát triển chưa cao. Mức sống của người dân thấp, cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư, phát triển mạnh, đặc biệt ở các nước khu vực Đông Nam Á.

– Phần lớn người dân châu Á theo Nho giáo, Khổng giáo và Phật giáo. Trong đó, Phật giáo chiếm ưu thế. Vì thế, các đình, chùa, miếu, những nơi linh thiêng giúp họ thỏa mãn nhu cầu nghi lễ tôn giáo.

– Đa số người dân châu Á sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, tâm lý tiểu nông và sản xuất nhỏ, phụ thuộc nhiều vào môi trường.

– Lối sống tôn trọng môi trường thiên nhiên, nặng tình, nhẹ lý và tính cộng đồng rất cao trong quan hệ, ứng xử là kết quả của phương thức canh tác nông nghiệp lúa nước. Sản xuất lúa nước đòi hỏi tính cần cù, chịu khó, chăm chỉ, biết hợp tác công việc mới kịp thời vụ. Hơn nữa sự phát triển của cây lúa phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Điều này đã làm cho tính cộng đồng phát triển cao.

Thích cuộc sống kín đáo, yên tĩnh mà không thích nhảy múa, ồn ào. Họ luôn tôn trọng quan hệ với những đồng nghiệp, hàng xóm xung quanh.

-Văn hóa ẩm thực phát triển khá lâu đời, nhu cầu ẩm thực của họ rất phong phú, đa dạng. Đặc biệt có những món ăn đặc sản rất nổi tiếng được sách đỏ ghi nhận. Nổi tiếng là những món ăn của Trung Quốc.

-Họ thường kiêng số 4 và 7 vì theo nho giáo, những con số này không may mắn. Phần lớn người châu Á theo đạo Phật. Vì thế có nhu cầu đến nơi cửa Phật vào các ngày 1 và 15 âm lịch hàng tháng.

–  Do mức sống chưa cao nên khi đi du lịch, người châu Á thường tính toán, cân nhắc, tiết kiệm trong tiêu dùng. Họ rất thích đi du lịch cùng gia đình, du lịch văn hóa (lễ hội) và du lịch biển.

 

Nghi thức ngoại giao của người châu Á có một số điểm khác so với người châu Âu như:

– Khi tiếp đón khách, người châu Á thường để tay trước ngực và cúi đầu chào khách. Nếu khách càng kính trọng thì được chủ nhà cúi chào càng thấp để thể hiện sự tôn kính.

– Họ rất nồng hậu khi tiếp, đón khách: mời, chào, vồn vã, thể hiện sự tôn trọng khách đến nhà. Họ thường mời khách đi trước, giành chỗ ngồi và mọi điều kiện tốt nhất trong gia đình cho khách. Khi đã thân quen, người châu Á rất thích xưng hô với nhau thân mật theo kiểu gia đình. Thích ngồi ăn uống kéo dài với những món ăn đặc sản. Thích ngồi xếp vòng tròn xung quanh bàn ăn thấp (20 – 30cm) đặt trên sàn nhà và chúc tụng lẫn nhau.

c. Du khách châu Phi

Châu Phi (hay Phi Châu) là châu lục đứng thứ ba trên thế giới về dân số sau châu Á và Châu Mỹ. Và lớn thứ ba trên thế giới về diện tích sau châu Á và châu Mỹ. Du khách châu Phi có những đặc điểm tâm lý cơ bản như sau:

 -Du khách châu Phi là những người chất phác, thẳng thắn đồng thời rất cầu thị trong giao tiếp, quan hệ.

– Họ là những người sôi nổi, nhiệt tình trong sinh hoạt, có lối sống năng động, yêu âm nhạc, thích nhảy múa.

– Nền văn hóa châu Phi còn giữ được nhiều bản sắc, giá trị văn hóa độc đáo lâu đời. Những lễ hội, phong tục tập quán truyền thống có một không hai còn lưu giữ cho đến ngày nay. Mỗi dân tộc châu Phi đều có những điệu nhảy truyền thống mang bản sắc văn hóa riêng của họ.

– Người châu Phi có lòng tự trọng dân tộc cao, nhưng cũng rất dễ tự ái. Nếu như trong hành vi ứng xử của người khác đối với họ không khéo léo.

Trong nghi thức ngoại giao họ có những đặc điểm nổi bật sau:

– Chào hỏi vồn vã, nhiệt tình.

– Bắt tay thân mật và mời khách vào nhà.

-Khi đến nhà, du khách phải tuân theo những phong tục, tập quán riêng của họ.

d. Du khách châu Mỹ

Châu Mỹ là tên một vùng đất nằm hoàn toàn ở nửa cầu Tây. Bao gồm hai lục địa Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Châu Mỹ chiếm 8,3% diện tích bề mặt Trái Đất và 28,4% diện tích đất liền. Dân số ở đây chiếm khoảng 13,5% của thế giới (hơn 900 triệu người). Những luồng di dân đã góp phần hình thành một cộng đồng dân cư năng động và đa dạng. Đặc điểm tâm lý của du khách Nam Mỹ như sau:

– Các nước Nam Mỹ có nền văn hóa đa sắc tộc, nhưng mang nhiều nét nổi trội của nền văn hóa Tây Ban Nha cộng với những bản sắc văn hóa của dân Da đỏ (dân thổ cư) và pha với văn hóa của một số dân di cư đến từ châu Phi và châu Á.

– Họ rất trực tính và thực tế trong sinh hoạt, yêu ghét rất rõ ràng. Nhưng cũng rất nhiệt tình giúp đỡ người khác một khi được yêu cầu.

– Họ thường sử dụng tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để giao tiếp.

– Tính cách rất sôi nổi, nhiệt tình, ưa tranh luận. Phần lớn người dân Nam Mỹ là những người có tài hùng biện, diễn thuyết hoặc trình bày vấn đề. Họ rất thích tụ họp và tranh luận các vấn đề thời sự, chính trị nóng bỏng.

– Với nền văn hóa đa sắc tộc, người dân Nam Mỹ rất tôn trọng các giá trị truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc khác. Chính vì vậy, các cộng đồng sắc tộc nơi đây còn lưu giữ các bản sắc văn hóa riêng của mình.

– Lễ hội hóa trang của các dân tộc Nam Mỹ: Braxin, Achentina… ( với các điệu nhạc Tăng-gô, Cha Cha Cha, Lambađa …) là những nét văn hóa truyền thống rất độc đáo và là niềm tự hào dân tộc của họ.

Trong giao tiếp người Nam Mỹ có những nét nổi bật sau:

-Rất vồn vã nhiệt tình chào mời khách, bắt tay và ôm hôn khi gặp khách, tặng hoa khi gặp gỡ lần đầu và cùng nhảy các điệu nhảy truyền thống.

– Người Mỹ được biết đến như là những người theo chủ nghĩa cá nhân. Họ rất tích cực và sáng tạo trong hoạt động kinh doanh. Người Mỹ được coi là người thẳng thắn. Khi nói chuyện trao đổi về một vấn đề nào đó, họ thích “đi thẳng vào vấn đề’’.

-Các giá trị được đề cao trong nền văn hóa Mỹ: chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do. Người Mỹ quan niệm rằng cá nhân càng phát triển, sự tự do cho họ càng nhiều bao nhiêu, thì đóng góp của cá nhân cho xã hội nhiều bấy nhiêu.

– Họ thường bắt tay, ôm hôn thân mật, không thích nói chuyện riêng tư hoặc hỏi về tuổi tác, tiền lương, thu nhập.

e. Du khách châu Đại Dương

Châu lục này nằm ở Nam bán cầu, có điều kiện khí hậu nhiệt đới và ôn đới. Điều kiện rất thuận tiện cho việc phát triển chăn nuôi và trồng trọt. Là vùng có nhiều khoáng sản và tiềm năng năng lượng rất lớn.

Đây là những nước có kinh tế, văn hóa, xã hội khá phát triển, thu nhập người dân khá cao.

Dân cư của các quốc gia này chủ yếu là dân nhập cư từ Anh, Pháp, Mỹ và từ một số nước châu Á như: Trung Quốc, Indonesia, Việt Nam và Philipin.

Nền văn hóa của các nước châu Đại Dương, phần lớn là văn hóa đa sắc tộc, với các phong tục tập quán, truyền thống rất độc đáo, vẫn giữ được các bản sắc riêng của các nhánh văn hóa của các sắc tộc khác nhau.

Ngôn ngữ chính được sử dụng trong giao tiếp ở châu lục này là tiếng Anh.

Đặc điểm tâm lý khách quốc tế của những thị trường trọng điểm tại Việt Nam

a. Khách Trung Quốc

-Người Trung Quốc rất cần cù, chịu khó trong công việc, yêu lao động và ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng rất cao.

– Họ là những người kín đáo. Trong quan hệ ứng xử luôn trọng tình, nhẹ lý, có ý thức tôn trọng tự nhiên và con người.

– Ở Trung Quốc, một số người rất tin tưởng vào tướng số: thường chọn ngày đẹp theo lịch khi đi du lịch (kiêng ngày 4 và 7); có nhu cầu đến nơi cửa Phật (chùa, miếu, đình) vào những ngày 1 và 15 âm lịch hàng tháng.

-Họ rất ý thức tôn trọng nề nếp, gia giáo trong cuộc sống gia đình; cầu kỳ, cẩn thận và chu đáo trong ngoại giao.

– Người Trung Quốc thích nghỉ ở các khách sạn 2 – 3 sao, các khu nhà sàn, hoặc lều bạt trong các khu sinh thái. Họ thích đi du lịch gia đình trong thời gian không lâu với dịch vụ trọn gói và được sử dụng các dịch vụ chữa bệnh phương Đông truyền thống như: châm cứu, mat-xa, tắm bùn, tắm nước khoáng.

– Họ thích đi du lịch biển và tham quan những danh lam thắng cảnh nổi tiếng với các di tích văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Họ thích khám phá tìm hiểu lễ hội và những nét bản sắc văn hóa của các dân tộc, cộng đồng. Đặc biệt rất muốn tìm hiểu nền văn hóa của Trung Quốc trước đây đã ảnh hưởng thế nào tới văn hóa của các nước xung quanh.

– Họ là người tính toán và tiết kiệm trong tiêu dùng du lịch. Khi đi du lịch thích được đi nhiều nơi và được sử dụng nhiều các dịch vụ.

– Họ thích mua đồ lưu niệm mang tính thủ công truyền thống của Việt Nam: tranh sơn mài, tranh chạm gỗ, tranh khảm trai, nón, mũ … để làm quà tặng.

– Họ nổi tiếng thế giới với nghệ thuật ẩm thực giàu có và cách thức chế biến đặc sắc. Vì thế, khi đi du lịch, người Trung Quốc có nhu cầu đối với ẩm thực rất cao. Họ thích ăn cơm (cơm gạo tám, cơm rang thập cẩm hoặc cơm nếp hương) với các món ăn phương Đông truyền thống như: gà tần, vịt quay, các món ăn chế biến từ rùa, ba ba, rắn và các loại gia vị, nước chấm.

Khi ăn họ dùng bát, đũa. Họ thích được phục vụ bằng việc bày thức ăn trên các bàn thấp (30 – 40cm), đặt trên nền nhà và ngồi xếp vòng tròn xung quanh để thưởng thức và dùng rượu nấu từ gạo, ngô… Họ cho rằng với cách ăn như vậy chẳng những bảo tồn được các giá trị truyền thống mà còn tạo ra được sự ấm cúng, thân mật như trong gia đình.

Người Trung Quốc có rất nhiều điều kiêng kị. Một số điều kiêng kị của họ là:

– Trong giao tiếp, kiêng ôm vai hay vỗ lưng, kiêng trỏ tay vào người đối diện. Vì cho rằng như thế là bất lịch sự. Khi rót nước, người hán kiêng để miệng bình trà đối diện với khách. Bởi lẽ quan niệm dễ khiến khách gặp điều chẳng lành.

-Họ cũng kiêng tặng khăn mặt cho nhau. Vì như thế là tỏ ý đoạn tuyệt ( trong tang lễ người ta dùng khăn trắng). Họ kiêng tặng nhau dao kéo vì sợ làm thương và tổn hại đối phương.

– Họ không thích các đề tài về cách mạng văn hoá, sex, chính trị

Họ uống theo thuyết “Âm dương ngũ hành” và có nhiều kiêng kị như:

– Mật ong không ăn cùng hành sống

– Lươn, cá chép không ăn cùng thịt chó

– Cá diếc không ăn cùng rau cải và gan lợn

– Quan niệm về sự vẹn toàn thể hiện trong ăn uống rất rõ. Ví dụ: món cá khi chế biến để nguyên con, gà chặt miếng và xếp đầy đủ các bộ phân lên đĩa. Sẽ là kiêng kị khi món cá hoặc gà dọn lên mà thiếu vây, đuôi, đầu. Vì họ cho rằng đó là điều chẳng lành, sự việc không được “đầu xuôi đuôi lọt”.

– Họ kiêng không xuất hành vào ngày mồng 5 tháng 1 âm lịch. Vì đó là ngày nguyệt kỵ, sẽ không gặp may.

b. Khách Hàn Quốc

-Người Hàn Quốc ham học hỏi, năng động, cần cù, coi trọng đạo đức và yếu tố tinh thần.

– Nếp sống hiện đại của người Hàn Quốc vẫn giữ được những nét truyền thống. Họ rất coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc và đề cao giáo dục. Người Hàn Quốc rất chú trọng đến gia tộc của mình. 

– Người Hàn Quốc rất dễ gần và cởi mở. Tuy nhiên, những dịp quan trọng, lễ nghi của họ khá phức tạp.

– Người Hàn Quốc đề cao vị trí của người già. Ví dụ: khi người già vào nhà phải đứng dậy chào. Khi nói chuyện phải bỏ kính râm. Trong khi ăn uống phải chờ người già đụng đũa trước. Khi xếp hàng, lên xe đều phải nhường người già trước…

– Người Hàn Quốc thích du ngoạn, vui chơi và làm việc rất chăm chỉ. Họ thường phân biệt hết sức rõ ràng các vấn đề như công việc, gia đình và giải trí.

– Người Hàn Quốc rất chú trọng đến ngày giờ và thuật phong thủy trong việc xây dựng nhà cửa hoặc làm những việc quan trọng.

-Thanh niên có xu hướng sống hiện đại. Họ thực tế, đơn giản, năng động, thích giao tiếp, dễ hòa mình và thích nghi với hoàn cảnh mới. Thích đi du lịch và tham dự các hoạt động mang tính chất phong trào phù hợp với tuổi trẻ.

– Phụ nữ Hàn Quốc ôn hòa, điềm đạm, lịch sự và giỏi nội trợ. Người Hàn Quốc có quan niệm việc tề gia nội trợ, chăm sóc chồng con là thiên chức của người phụ nữ.

– Người Hàn Quốc rất thích màu trắng. Vì đối với họ, màu trắng biểu trưng cho sự thuần khiết, trong trắng và thủy chung.

– Người Hàn Quốc kỵ số 4 và khi nhận quà thường kỵ nhận quà bằng tay trái.

– Khi nói chuyện, khi cười cần lấy tay che miệng để không bị coi là thô lỗ. Đồng thời, khi giao tiếp với người Hàn Quốc chú ý không để tay trong túi quần, túi áo. Vì như vậy sẽ bị coi là mất lịch sự.

– Người Hàn Quốc thích chơi thể thao. Đặc biệt là các môn thể thao như: bóng đá, bóng chuyền, golf, bóng chày, võ thuật…

Khẩu vị và cách ăn uống:

– Người Hàn Quốc dùng thìa ăn cơm, dùng đũa gắp thức ăn. Họ không bao giờ dùng song song cả thìa và đũa trong bữa ăn. Đồng thời, khi ăn thì phải đặt bát xuống bàn, không được cầm bát lên. Nếu không sẽ bị coi là hành động bất lịch sự.

– Người Hàn Quốc chú trọng bữa sáng và bữa tối. Bữa trưa đối với họ được xem là món điểm tâm.

– Ba món ăn luôn có mặt trên bàn ăn của người Hàn Quốc là Pap (cơm), Kim chi (rau muối cay) và Kanjang (nước tương). Đặc biệt, Kim chi đóng vai trò quan trọng trong bữa ăn của người Hàn Quốc. Trong mâm cơm của họ luôn có nhiều bát đĩa nhỏ để đựng các món Kim chi.

– Người Hàn Quốc nhìn chung thích ăn các món hải sản, thịt bò, thích các loại gia vị như tỏi, hành, ớt… và thường dùng dầu vừng trong chế biến món ăn.

Đặc điểm du khách Hàn Quốc:

– Khách du lịch Hàn Quốc thích các loại hình du lịch biển, nghỉ ngơi, tìm hiểu văn hóa.

– Bên cạnh đó, đi du lịch với mục đích tìm kiếm đối tác hợp tác kinh doanh cũng là một trong những loại hình du lịch phổ biến của người Hàn Quốc.

– Mặc dù có lối sống thoáng hơn so với một số quốc gia châu Á khác nhưng khách du lịch Hàn Quốc khi ra nước ngoài du lịch vẫn giữ gìn được bản sắc dân tộc. Trong giao tiếp, họ tỏ ra cởi mở, vui vẻ, sôi nổi nhưng rất lịch sự, giữ được chừng mực và có tính tự chủ khá cao.

– Du khách Hàn Quốc khi đi du lịch thích được sống trong bầu không khí vui vẻ với những cuộc tham quan và các hoạt động tập thể.

– Khách du lịch Hàn Quốc có khả năng thanh toán khá cao. Do đó, họ thường lựa chọn các dịch vụ du lịch loại khá trở lên.

c. Khách Nhật Bản

– Phụ nữ Nhật Bản có Kimono (trang phục truyền thống) trong các nghi thức ngoại giao. Tùy nội dung buổi lễ, mức quan hệ, tuổi tác mà yêu cầu màu sắc Kimono khác nhau.

– Là những người thông minh, cần cù, khôn ngoan, tính cộng đồng cao, biết sử dụng sức mạnh của nhóm để làm việc. Họ có kỷ cương và ý thức trong công việc, ham học hỏi và luôn cầu thị để tiến bộ.

– Phần lớn người Nhật theo Phật giáo, nhưng trong vài chục năm trở lại đây, xu hướng theo đạo Tin Lành và Thiên Chúa giáo trong thanh niên Nhật ngày càng tăng.

– Người Nhật luôn có lòng tự hào dân tộc, luôn tôn trọng truyền thống đất nước, con người. Những điều này đã làm nên những thành tựu đáng khâm phục về kinh tế và văn hóa của họ. Văn hóa của Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất nhiều của văn hóa Trung Quốc. Vì thế thuyết âm dương, thuật phong thủy được sử dụng rất phổ biến trong đời sống của họ. Họ rất tin vào tướng số, và kiêng kị số 4, thích số lẻ 3, 5, 7, 9…

– Người Nhật coi hoa anh đào “ Sakura” là biểu tượng dân tộc của họ. Màu sắc truyền thống mà họ thường sử dụng là màu đen và đỏ (màu nóng – dương, sinh trưởng).

– Khi đi du lịch họ thường chọn địa điểm du lịch biển nơi có nhiều nắng, phong cảnh đẹp, hấp dẫn, nước biển trong xanh, cát vàng, khí hậu ấm.

– Họ rất yêu thích thiên nhiên, có nhu cầu thẩm mỹ cao đối với sản phẩm dịch vụ du lịch, rất trung thành với văn hóa truyền thống.

– Chương trình du lịch 7 ngày thường được du khách lựa chọn. Trong một năm người Nhật thường đi du lịch 3 lần, điều này cũng phụ thuộc vào qui định trong chế độ lao động của nhà nước Nhật.
Họ thường yêu cầu tính chuẩn xác cao về thời gian kế hoạch trong các tour du lịch.

– Nhu cầu du lịch văn hóa của người Nhật rất lớn. Vì thế họ rất thích đi tìm hiểu văn hóa các địa phương có lịch sử lâu đời với các công trình văn hóa kiến trúc lịch sử nổi tiếng.

– Khi đặt phòng ở, người Nhật không thích chọn tầng thượng hoặc tầng 1, 2 trong khách sạn. Vì theo họ đó là những nơi không an toàn.

– Người Nhật thích mua sắm nhiều quà lưu niệm trong những chuyến đi. Theo thói quen của người Nhật, khi đi xa về, việc tặng quà cho người thân, bạn bè, cơ quan và hàng xóm là không thể thiếu được. Đó là sự thể hiện tình cảm trân trọng của họ.

– Họ thích ăn các món được chế biến từ hải sản như tôm, cua, cá, mực. Đặc biệt, các món ăn truyền thống sang trọng của họ là vây cá mập, thịt cá ngừ, thịt cá voi. Món ăn đặc trưng của người Nhật là gỏi cá được chế biến rất cầu kỳ từ cá Bơn, cá Nóc, Bạch Tuộc.

– Người Nhật rất ưa chuộng các món ăn được chế biến từ cá Nóc. Theo quan niệm của người Nhật thì thịt cá Nóc rất bổ dưỡng. Cá Nóc được chế biến thành gỏi rất cầu kỳ. Hoặc thịt cá được cắt thành từng miếng mỏng xếp thành hình hoa cúc rất ấn tượng.

– Món ăn nổi tiếng của người Nhật là món Sushi, còn được gọi là cơm Tứ hỉ. Cách làm khá đơn giản, cơm nấu chín rải đều trên mâm có rắc thêm muối dấm cho vừa đủ và trộn đều. Sau đó được rải ra thành vỉ và cho những lát cá, lát tôm (sống) rau tím và bó cơm lại thành cuộn. Khi ăn, Sushi được cắt thành từng khoanh. Sushi có các màu đen, trắng, vàng trắng, đỏ rất đẹp mắt.

– Người Nhật thích ăn các món ăn Trung Quốc, các món ăn nhanh kiểu Mỹ, và uống rượu Vang Pháp, thích uống rượu Sa-kê được đóng chai 250ml.

d. Khách Mỹ

-Người Mỹ năng động, đam mê, phiêu lưu, thực dụng, thích giao tiếp và các hoạt động du lịch.

–  Người Mỹ có thói quen tôn trọng tự do cá nhân. Đối với họ, có thể ngồi đưa chân lên bàn, tay chắp sau gáy, quần áo có nhiều túi. Theo họ, điều đó thể hiện thói quen của cá nhân cần được tôn trọng. Người Mỹ rất tin vào sức mạnh thần bí, thích xem tướng, số, kiêng kị số 13 ngày thứ sáu.

– Thích du lịch biển. Đặc biệt, họ rất quan tâm tới các môn thể thao như: bơi, lướt ván, lặn biển, đua thuyền ở nơi du lịch.

– Người Mỹ có nhu cầu cao với du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, nghệ thuật. Họ thích tham gia vào các hoạt động văn hóa, lễ hội của các cộng đồng dân cư địa phương.

– Khách du lịch Mỹ thường thích đi dạo phố bằng xích lô, thích đi bộ để mua bán hoặc ngắm cảnh quan vào ban đêm tại địa điểm du lịch.

– Phương tiện giao thông mà họ thường thích sử dụng trong hoạt động du lịch: máy bay, ôtô hoặc tàu thủy.

Khẩu vị của du khách Mỹ

– Người Mỹ không cầu kỳ trong ăn uống. Họ thường thích đồ lạnh và ăn uống đơn giản như: bánh mì với bơ sữa hoặc với bít tết.

– Họ thường thích dùng các món ăn nhanh để bảo đảm đủ chất, tiết kiệm thời gian và phù hợp với cuộc sống công nghiệp.

– Món ăn truyền thống của người Mỹ là sườn rán, bánh cua và bánh mỳ kẹp thịt gà. Họ thích dùng bánh có vị mặn ngọt. Đặc biệt, họ thích món táo nấu với thịt ngỗng hoặc nấu với thịt xay nhỏ.

– Họ cũng thích ăn các món được chế biến từ hải sản, các món ăn Trung Quốc và Việt Nam. Họ không thích ăn nóng theo kiểu phương Đông, thích dùng rượu Vang Pháp trong các bữa ăn.

– Thích uống cà phê, nước khoáng tinh khiết, nước hoa quả hoặc cocacola khi đi du lịch.

– Thích lưu trú ở các khách sạn 4 – 5 sao hoặc các khu nhà sàn, lều bạt trong các khu sinh thái.

e. Khách Campuchia

– Người Campuchia có lòng trung thực, kiên nhẫn trước khó khăn, chịu đựng nhọc nhằn trong lao động, lịch thiệp trong xã hội. Các phụ lão thích người khác kính nể. Phụ nữ thường hay e thẹn. Cả già lẫn trẻ đều có lòng hiền hòa, không thích nói dối. Vì vậy, nếu ai nói dối, lừa gạt người Campuchia một lần thì sẽ mất hết lòng tin với họ, thậm chí dẫn đến hận thù.

– Người Campuchia hòa nhã, coi trọng nghi lễ, đặc biệt là những lễ nghi tôn giáo.

–  Họ thường mặc trang phục truyền thống với chiếc khăn Krama (khăn rằn) ở trên đầu. Khăn này có nhiều công dụng: làm khăn rửa mặt, làm túi đựng khi mua hàng, trời nóng có thể thấm nước đắp lên đầu cho mát, thời tiết se lạnh có thể quàng cổ để chống lạnh, khi đi ngủ có thể dùng làm chăn…Do đó, chiếc khăn rằn đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của người Campuchia. Vì vậy, khi được tặng khăn, phải tỏ lòng tôn kính, trân trọng.

– Ẩm thực Campuchia cũng như thói quen của các dân tộc thuộc nền văn minh lúa nước trong khu vực châu Á. Người dân Campuchia có thói quen ăn gạo tẻ và ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Các bữa ăn hầu hết đều có cơm. Các món khác như cà ri, súp, khoai tây chiên thường là các món chính đi kèm khá phổ biến. Ngoài gạo tẻ, người Campuchia còn sử dụng gạo nếp để chế biến ra các món xôi và cơm lam. Xôi thường đi kèm với sầu riêng để làm món tráng miệng. Cơm lam thường dùng để thay thế cơm cho người nông dân làm ruộng. Khi họ không có thời gian chế biến.

– Ẩm thực Campuchia ảnh hưởng phong cách của Ấn Độ và Trung Hoa. Hầu hết các món ăn có vị nhạt, ngọt và béo. Món ăn Ấn Độ được tìm thấy trong các gia vị được dùng trong các món ăn Campuchia như: sa tế, ớt, tiêu, hồi… Món ăn Trung Hoa được nhận thấy trong cách chế biến nhiều dầu mỡ, phong cách ẩm thực Tứ Xuyên.

f. Khách Úc

– Người Úc là người bản chất công bằng, không ưa kiểu cách. Đại đa số khách Úc là những người tuân thủ pháp luật và sống theo khuôn phép.

– Người Úc rất cởi mở và thẳng thắn.

– Người Úc tin vào nguyên tắc tạo cho mọi người sự công bằng.

– Người Úc bênh vực bạn bè, những người bị thua thiệt và yếu thế. Người yếu thế là những người đứng ra tranh tài hoặc là một đối thủ mà không có hy vọng thắng trong một cuộc thi đấu thể thao hay tranh tài.

– Người Úc ưa thích thể thao, thích tham gia với tư cách vừa là người chơi, vừa là người xem.

– Việc di dân từ châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi và Trung Đông tới Úc đã làm giàu thêm cho nền văn hóa Úc và phong cách Úc, góp phần vào việc hình thành những truyền thống mới. Ðóng góp to lớn của những người di cư này là đã làm cho đời sống Úc trong tất cả mọi lĩnh vực càng trở nên đặc sắc hơn từ thương mại cho tới nghệ thuật, từ thức ăn cho tới hài kịch.

– Nhiều người Úc ham mê thể thao, xem môn bóng bầu dục và bóng đá luật Úc.

– Mười hoạt động thể chất được ưa chuộng nhất là: đi bộ, thể dục nhịp điệu/thể dục cho sức khỏe, bơi lội, xe đạp, tennis, chơi golf, chạy bộ, đi bộ trong rừng, bóng đá và bóng ném.

– Các loại hình thể thao khác được ưa chuộng là: môn cric-kê (cricket), bóng chày và trượt tuyết.

– Nghệ thuật trình diễn như: phim ảnh, hội họa, sân khấu và âm nhạc đều có nhiều khán giả ưa chuộng.

– Khi gặp người nào đó lần đầu tiên, thông thường bạn phải bắt tay phải bằng tay phải của mình. Những người không quen biết nhau thông thường không hôn hoặc ôm nhau khi mới gặp.

– Khi chào hỏi, người Úc thích chào hỏi bằng cách kèm theo các từ “ông”, “bà”, “cô” hay lịch sự hơn nữa là “ngài” vào trước họ của một người nào đó để thể hiện thái độ kính trọng.

-Nhiều người Úc nhìn thẳng vào mắt người khác khi họ trò chuyện và coi đó như là sự kính trọng và cho thấy đó là dấu hiệu của sự lắng nghe.

– Khi gặp người mới, Người Úc thường không cảm thấy thoải mái lắm khi phải đặt câu hỏi hoặc bị hỏi những câu hỏi liên quan đến sự riêng tư như tuổi tác, tình trạng hôn nhân và tài chính.

– Trong tổng dân số 19 triệu người, 73% người Australia theo đạo Thiên chúa 12,7% không theo tôn giáo nào. Còn lại là một số người theo đạo Do Thái, đạo Hồi và đạo Phật

– Úc là một trong những nơi năng động nhất trên thế giới trong lãnh vực ẩm thưc̣. Do ảnh hưởng của viêc̣ nấu nướng quốc tê. Ở Úc thường có các lễ hội ẩm ́ thực, họ thích ăn hải sản và món nướng.

 

g. Khách Malaysia

– Malaysia là đất nước Hồi giáo, với trên 50% dân số theo Đạo Hồi. Số còn lại theo các tôn giáo khác như: Phật giáo, Ấn Độ giáo và Cơ đốc giáo. Do đó, nền văn hóa Malaysia bao gồm nhiều tiểu văn hóa khác nhau như phương Tây, Ấn Độ, Trung Quốc…Tuy nhiên, văn hóa và lối sống của họ không có sự khác biệt phân cực mà dung hòa, kết hợp với nhau để cùng phát triển.

– Nhìn chung, người Malaysia hữu nghị và mến khách, nhiệt tình, rộng lượng, cung kính, lịch sự và rất coi trọng lễ nghĩa.

– Người Malaysia có thói quen sờ vào lòng bàn tay của đối phương rồi chắp hai bàn tay lại với nhau khi chào hỏi một ai đó.

– Người Malaysia yêu cầu về hẹn giờ chính xác như người phương Tây. Họ không thích đón khách vào lúc hoàng hôn. Bởi họ phải cử hành một số các nghi thức Tôn giáo của đạo Hồi vào thời gian này. Nếu muốn thăm hỏi một người Malaysia nào đó, nên chọn thời điểm phù hợp, khoảng sau 20h30.

– Chủ đề phù hợp nhất để nói chuyện với người Malaysia là công việc buôn bán, kinh doanh, chuyện xã hội, bóng đá, lịch sử, văn hóa Malaysia hay ẩm thực các vùng miền…

– Món quà tặng tốt nhất đối với người Malaysia là bút mực, sổ công tác. Đồng thời, tránh tặng rượu cho họ (ngoại trừ người Malaysia gốc Hoa).

– Người Malaysia ít hút thuốc, không ăn thịt lợn, không dùng máu tiết của động vật (đặc biệt là những người theo đạo Hồi).

– Họ thích uống cà phê, ăn trầu và uống chè Lipton.

 

– Người Malaysia ít ngồi bàn, thường bày ra chiếu và ngồi xếp thành vòng tròn. Họ có thói quen ăn bốc. Tay phải bốc thức ăn. Tay trái nếu dùng các dụng cụ như thìa, dĩa…, phải xin phép những người ngồi xung quanh.

– Người Malaysia hay ăn các món cay và trong bữa cơm nên tránh không uống rượu và tránh mời rượu cũng như sử dụng thịt lợn (đặc biệt là đối với những người theo đạo Hồi).

h. Khách Pháp

– Khéo léo và lịch thiệp trong giao tiếp ứng xử.

– Người Pháp có tính hài hước với nghệ thuật châm biếm và phê phán các thói hư tật xấu trong xã hội. Những đặc điểm này được phản ánh rất rõ trong các tác phẩm điện ảnh (phim cười) và văn học (truyện cười) của họ.

– Trong sinh hoạt hàng ngày, họ là những người trọng hình thức, thích mốt, cầu kỳ trong ăn uống, các đồ dùng và thức ăn phải đạt được độ tinh tế.

– Ngày hội du lịch hàng năm của Pháp 1/8 là một sự kiện rất quan trọng của người dân Pháp. Thông qua lễ hội này, người Pháp muốn quảng bá giới thiệu về hình ảnh, đất nước Pháp tráng lệ, có lịch sử văn hóa lâu đời với truyền thống, văn hóa đặc trưng của châu Âu.

– Họ có nhu cầu du lịch sinh thái và du lịch thể thao giải trí, đặc biệt là nhu cầu du lịch văn hóa để mở rộng hiểu biết và tầm nhìn.

– Họ thường không thích nói tiếng nước ngoài, rất tự hào về văn hóa và ngôn ngữ tiếng Pháp của họ.

– Họ thường có thói quen cho tiền thêm để bày tỏ sự hài lòng với người phục vụ. Họ coi đây là một thói quen thể hiện của nền văn minh hiện đại.

– Họ thích đi du lịch bằng ôtô và máy bay.

– Họ yêu cầu chất lượng phục vụ cao, thích nghỉ tại các khách sạn 4 – 5 sao và các nhà nghỉ đơn giản trong các khu sinh thái như: nhà sàn, lều, hoặc cắm trại. Họ rất thích đến các địa điểm có phong cảnh đẹp, khí hậu trong lành.

– Khi ăn uống, họ thích kết hợp các món ăn nước ngoài với các món ăn Pháp truyền thống, tạo nên nhu cầu ẩm thực rất phong phú và đa dạng.

– Họ rất thích dùng rượu Vang trong các bữa ăn. Vì với họ, nó không chỉ thể hiện tính cách lịch sự trong giao tiếp mà còn làm ngon miệng.

– Họ thích uống cà phê và coi đó là văn hóa không thể thiếu được trong đời sống.

– Họ thích dùng các bữa điểm tâm trong ngày với các loại bánh ngọt, món nướng, rán tái lòng đào. Họ rất thích các món đặc sản, hải sản và được phục vụ ăn uống tại phòng. Vì theo họ, điều này tạo ra bầu không khí ấm cúng, thân mật hơn trong khi ăn.

i. Khách Thái Lan

– Đạo Phật đã thấm nhuần trong tư tưởng cũng như nét văn hóa, truyền thống của người dân Thái Lan. Do đó, người dân Thái Lan thường rất giản dị, cởi mở và hiếu khách.

– Họ thường tỏ ra rất lịch sự, ân cần, chu đáo và muốn được cư xử phù hợp với tập quán, lễ nghi của đất nước mình.

 

– Khẩu vị của người Thái Lan rất đa dạng. Tuy nhiên, họ thường sử dụng các gia vị cay để chế biến thực phẩm.

– Người Thái Lan chào nhau bằng cách chắp hai tay trước mũi. Kiểu chào này có thể được dùng khi chào hỏi, tạm biệt, cảm ơn hoặc xin được tha thứ….Kiểu chào này đã trở nên vô cùng phổ biến, trở thành một phong tục gắn liền với cuộc sống của người dân Thái Lan. Do đó, họ rất ít khi bắt tay khi gặp nhau, đặc biệt là đối với phụ nữ.

– Người Thái Lan cho rằng tay phải là biểu hiện cho sự cao quý, còn tay trái thể hiện sự không trong sạch. Do đó, khi ăn uống hay tặng quà cho người Thái Lan, phải dùng tay trái để thể hiện sự tôn kính. Thông thường, món quà được hầu hết người dân Thái Lan yêu thích đó là hoa hoặc quả tươi.

– Người Thái Lan kiêng chĩa mũi bàn chân vào người khác, xoa đầu hoặc chạm tay vào đầu người khác. Tất cả những cử chỉ này đều được coi là bất lịch sự,thiếu sự tôn trọng.

j. Khách Nga

– Người Nga là những người thẳng thắn, dứt khoát nhưng rất dễ hòa thuận, cởi mở, rộng lượng và chân thành trong các mối quan hệ. Họ sẵn sàng giúp đỡ người khác trong hoạn nạn mà không bao giờ tính toán.

– Họ là những người có lòng tự tôn dân tộc rất cao, yêu lao động, cần cù, chịu khó, có ý thức và kỷ luật cao trong công việc, dám nghĩ, dám làm và có tâm hồn cao thượng.

– Họ rất thích âm nhạc, nhảy, múa. Họ có các điệu nhảy dân tộc truyền thống được lưu giữ từ lâu đời, thể hiện sự vui nhộn, đoàn kết gắn bó.

– Họ rất thích đi du lịch nhóm và đi theo các dịch vụ trọn gói.

Người Nga thường có thói quen đi nghỉ vào mùa hè. Họ có nhu cầu du lịch biển và du lịch nghỉ ngơi an dưỡng rất cao.

– Họ thích tham gia các loại hình thể dục thể thao như: bóng bàn, bóng đá, tenis, cầu lông, đua ngựa hoặc leo núi, thích khám phá, tìm hiểu bản sắc văn hóa,lịch sử, con người ở các vùng miền và các địa phương khác nhau trên thế giới.

– Họ không cầu kỳ trong ăn uống. Họ thích các món ăn lạnh. Bao giờ bữa ăn cũng có bánh mì và sữa, bơ. Bữa sáng họ thường dùng cháo sữa, bánh mì, bơ cùng với trà đen.

– Họ thích dùng các loại súp được chế biến từ bắp cải tím, cà rốt, lá thơm. Khi ăn, họ thường cho vài thìa sốt Maioner hoặc Smitana lên trên bát súp, tạo ra mùi thơm mát dễ chịu.

– Họ thích ăn các món thịt quay, các món ninh nhừ, thích các loại xay nhỏ, rán hay om; kiêng ăn chim bồ câu, thịt chó. Họ rất thích thịt nướng, thịt hun khói với dưa chuột, tỏi muối chua. Món khoái khẩu của họ là cá chép ướp muối phơi khô uống với bia. Họ thích dùng các loại rau: bắp cải, cà chua, dưa chuột, khoai tây, củ cải đỏ, xà lách, hành, mùi trong bữa ăn. Đặc biệt họ thích dùng món xalat Nga. Món được chế biến từ giò, dưa chuột, khoai tây luộc và thịt nạc được thái vuông nhỏ, cà chua, sau đó được trộn Maioner. Khi ăn họ dùng đĩa, dao, dĩa để xẻ và ăn thức ăn.

– Họ rất thích rượu Vodka, đặc biệt là Vodka đỏ trước bữa ăn. Nó có tác dụng làm ấm người và là một thói quen ẩm thực.

k. Khách Đức

– Họ có tư duy chặt chẽ, có tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật cao trong công việc. Họ có kế hoạch chi tiêu trong đời sống rất rõ ràng, cụ thể và khá chặt chẽ. Khi tiêu dùng họ rất chú ý tới tính thực dụng của sản phẩm, hàng hóa. Họ có ý thức tiết kiệm mặc dù mức sống của người Đức khá cao so với nhiều nước khác.

– Người Đức có tài tổ chức. Họ biết cách tạo ra sức mạnh của nhóm, đoàn kết và chia sẻ lẫn nhau với thái độ rõ ràng, vô tư và công bằng trong công việc.

– Lễ hội Bia Munich có truyền thống lâu đời và thường được tổ chức vào tháng 3 hằng năm, kéo dài trong 16 ngày. Đây là dịp người Đức quảng cáo, giới thiệu nền công nghiệp bia. Một trong những sản phẩm nổi tiếng thế giới mà du khách rất ưa chuộng.

– Họ rất tin vào các thông tin quảng cáo du lịch. Vì thế trước khi đi du lịch, người Đức thường đến các hãng, các công ty uy tín để tìm hiểu thông tin. Họ thường thích đi du lịch ở những nước có du lịch biển phát triển, điều kiện an ninh đảm bảo và có nhiều dịch vụ vui chơi giải trí, thể thao.

– Họ rất thích đi du lịch theo nhóm. Theo họ, đây là dịp tốt nhất để tăng cường và củng cố quan hệ trong nhóm, giúp họ hiểu biết lẫn nhau tốt hơn.

– Họ thích đi du lịch theo kiểu trọn gói. Họ thường lựa chọn phòng nghỉ tại các khách sạn 2-3 sao hoặc lưu trú trong các nhà sàn, lều, bạt ở các khu sinh thái. Phương tiện giao thông ưa thích của người Đức khi đi du lịch là máy bay, xe lửa.

– Họ thường ăn các món ăn được chế biến bằng cách: nấu, hầm và rán. Món ăn ưa thích của người Đức là xúc xích, lạp sườn và thịt hun khói. Người Đức có nền công nghiệp sản xuất xúc xích rất phát triển. Hiện nay họ có đến 1.500 loại xúc xích. Họ chế biến bằng cách lấy lạp sườn và thịt hun khói cho vào lá bắp cải chua cuộn lại và khoai tây rán ăn với thịt bò rán. Họ cũng thích các món ăn hải sản. Họ thích dùng điểm tâm, ăn bánh ngọt và hoa quả.

KHÓA HỌC

NỘI DUNG XEM NHIỀU

NEW

CAO ĐẲNG - TC - VB2