25 C
Sài Gòn
Thứ ba, Tháng tư 29, 2025
Trang chủ Blog Trang 9

Lớp nghiệp vụ hướng dẫn viên du lịch

0
KHÓA HỌC NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

LỚP NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH 

Bạn muốn trở thành HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH trong khi ngành học của mình hoàn toàn không liên quan

Bạn chưa có thẻ HƯỚNG DẪN VIÊN để phục vụ cho công việc trong khi Thanh tra đang rất gắt gao

THẺ của bạn hết hạn, bạn cần cấp lại để làm việc

Điều kiện để được cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch quy định đối tượng tham gia phải có Chứng chỉ Nghiệp vụ Hướng dẫn viên Du lịch nội địa/quốc tế theo chương trình đào tạo của Tổng cục Du lịch năm 2017.

Nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của người học và cung cấp đội ngũ Hướng dẫn viên du lịch giỏi, nhiệt huyết, có trình độ tốt nghiệp từ Trung cấp trở lên các chuyên ngành khác ngoài Du lịch. Thông báo tổ chức lớp nghiệp vụ Hướng dẫn viên du lịch ngắn hạn đổi thẻ quốc tế và nội địa.

Khóa học thực tập nghiệp vụ du lịch Citytour 01

ĐỐI TƯỢNG HỌC VÀ THỜI GIAN ĐÀO TẠO

_Nghiệp vụ Hướng dẫn quốc tế dành cho học viên là những người có bằng tốt nghiệp Cao đẳng trở lên nhưng không phải là chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch.

_Nghiệp vụ Hướng dẫn nội địa dành cho học viên là những người có bằng tốt nghiệp Trung cấp trở lên nhưng không phải là chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch.

HỌC PHÍ VÀ HÌNH THỨC HỌC ÔN THI HDV DL

Đối với những học viên lần đầu chuyển sang làm HDV chưa có kinh nghiệm về về nghề hướng dẫn viên du lịch thì học như sau:

Thời lượng học: 02 tháng (online)

Học phí học và thi: 2.500.000đ/hv

Đối với học viên đã từng là HDV có nhiều kinh nghiệm về nghề hướng dẫn viên du lịch thì ôn thi như sau:

Thời lượng ôn thi: 04 buổi (online)

Học phí ôn và thi: 1.500.000đ/hv

MỤC TIÊU ĐÀO TẠO

_Trang bị cho học viên kiến thức cơ bản về địa lý, lịch sử, văn hóa, kinh tế – xã hội

_Rèn luyện các kỹ năng hướng dẫn du lịch cho học viên tác nghiệp trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam

_Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về du lịch và nghiệp vụ hướng dẫn du lịch

_Bổ sung điều kiện về chứng chỉ cho học viên để được cấp thẻ hành nghề hướng dẫn du lịch

NỘI DUNG KHÓA HỌC

  • Địa lý Việt Nam
  • Lịch sử Việt Nam
  • Văn hóa Việt Nam
  • Lịch sử văn minh thế giới
  • Hệ thống chính trị Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến du lịch
  • Tổng quan du lịch
  • Tuyến, điểm du lịch Việt Nam
  • Tâm lý khách du lịch
  • Giao lưu văn hóa quốc tế
  • Nghệ thuật giao tiếp và ứng xử trong hướng dẫn viên du lịch
  • Kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn
  • Y tế du lịch
  • Xuất nhập cảnh, hàng không và lưu trú
  • Lễ tân ngoại giao
  • Thực tập

CHỨNG CHỈ

Chứng chỉ Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa/quốc tế theo quy định của Tổng cục Du lịch.

chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa
Mẫu chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa
chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch quốc tế
Mẫu chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch quốc tế

Thẻ Hướng dẫn viên du lịch do Sở Du lịch cấp. Học viên đạt trình độ ngoại ngữ theo quy định (tiếng Anh và các tiếng nước khác) sẽ được Sở Du lịch xem xét cấp thẻ Hướng dẫn viên du lịch quốc tế.

mẫu thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế nội địa
Mẫu thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế nội địa

Mọi thông tin chi tiết về khóa học vui lòng liên hệ:

Phòng đào tạo tuyển sinh: 0979868657

Bài thuyết minh tuyến tour 6 tỉnh miền Tây (1)

0

6 tỉnh miền Tây: Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Tiền Giang

———————————————

Bài thuyết minh tuyến tour Đồng Tháp 

Tỉnh Đồng Tháp là một trong 3 tỉnh thuộc khu vực Đồng Tháp Mười

  • Phía Bắc tỉnh giáp Campuchia
  • Phía Nam giáp Vĩnh Long
  • Phía Tây giáp An Giang và Cần Thơ
  • Phía Đông giáp Long An và Tiền Giang.

Tỉnh có hệ thống sông ngòi, kênh, rạch, chằng chịt nhiều ao, hồ lớn. Sông chính là sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) chảy qua tỉnh với chiều dài 132km. Dọc theo hai bên bờ sông sông Tiền là hệ thống kênh rạch dọc ngang. Đường liên tỉnh giao lưu thuận tiện với trên 300km đường bộ và một mạng lưới sông rạch thông thương.

Đồng Tháp nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu chia hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.

Là một tỉnh nông nghiệp, Đồng Tháp sản xuất nhiều lương thực và các loại nông thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đất đai Đồng Tháp màu mỡ bởi phù sa do hai con sông Tiền và sông Hậu cung cấp hàng năm. Xóm làng trù phú giữa bốn bề cây cối xanh tươi. Vì thế, Đồng Tháp được biết đến như một vựa lúa của cả nước. Ở đây có giống lúa nổi – một loài lúa mọc tự nhiên từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 10 thu hoạch mà không cần chăm bón. Đồng Tháp cũng là vùng đầy triển vọng về các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, bông, thuốc lá, đậu tương và cây ăn trái như xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành, quít Lai Vung, bưởi Phong Hòa, chôm chôm, vú sữa có quanh năm.

Ở Đồng Tháp có nhiều tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo và Công giáo. Tính cách người Đồng Tháp mang đậm nét đặc trưng chung của đồng bằng Nam Bộ: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở và giàu lòng mến khách. Vùng đất Đồng Tháp Mười xưa nổi tiếng hoang vu với lắm bưng, trấp, đìa, bàu với bạt ngàn đưng, lác, năng, sen, súng và lau sậy…

Đây là giang sơn của các loài động vật hoang dại như rắn, rùa, chuột, ếch, chim muông, cua, cá sấu… Tuy ngày nay con người đã khai khẩn và cải tạo đất để lập làng, tạo ruộng, những món ăn đặc sản miền Tây chế biến từ chuột, ếch, chim, tôm, cua, cá đồng … vẫn là những món ăn nổi tiếng của cả vùng, cùng với bánh phồng tôm Sa Giang, nem Lai Vung, bánh xèo Mỹ Trà.

Về thăm Đồng Tháp du khách như trở về với cội nguồn thiên nhiên bởi bầu không khí trong lành, mát mẻ của những cánh đồng lúa phì nhiêu. Đi trên những chiếc xuồng ba lá trên sông rạch để đến với khu di tích lăng cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, đài liệt sĩ, khu di tích Gò Tháp, di tích kiến trúc cổ Kiến An Cung, vườn chim thiên nhiên ở Tháp Muời, vườn sếu qúi hiếm ở Tam Nông, khu căn cứ Xẻo Quýt, làng Hoa Kiểng Tân Qui Đông …

Thị Xã Cao Lãnh

Là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp. Sau ngày giải phóng đất nước 30-4-1975, tỉnh Đồng Tháp được thành lập và tên Cao Lãnh được dùng để đặt cho tỉnh lỵ. Là do danh xưng này rất nổi tiếng và trở thành đặc trưng của vùng đất này.

Có huyền thoại nói rằng vào năm 1817, hai vợ chồng ông Đỗ Công Tường, thường gọi là Lãnh, từ miền Trung vào vùng đất này lập nghiệp. Ông bà đã chọn xã Mỹ Trà làm nơi định cư và lập ra một vườn quýt. Đến mùa quýt chín, những người đến mua đươc ông bà tiếp đãi niềm nở và những người bán được đối xử thân thiện… dần dà nơi này trở thành một cái chợ nhỏ. Chợ này trong ba năm đầu rất tấp nập, thu hút những người buôn bán vì thuận đường qua lại.

Còn ông Đỗ Công Tường vốn thuộc dòng nho gia, tính tình cương trực nên được những người trong làng cử làm “Câu Đương” (một chức vụ trong ban tề làng phụ trách việc hoà giải, dàn xếp những vụ xích mích, mâu thuẫn của mọi người trong dân làng). Ở vùng này người ta nhắc tên ông bà suốt ngày. Vì để tỏ niềm tôn kính, họ gọi tên là Câu Lãnh.

Thế rồi trong lúc mọi người đang sống vui vẻ, chan hoà tình cảm với nhau thì năm 1820, xã Mỹ Trà bị một trận dịch bệnh hoành hành. Mỗi ngày trong làng đều có người chết, có nhiều gia đình chết gần hết… Ngày ấy người dân ở đây còn tin tưởng vào thần linh nên cho rằng là Diêm Vương bắt lính. Người nào đến số chết, bị bệnh thì chịu bó tay, không phương cách gì cứu chữa. Vả lại vào thời ấy thuốc men rất thiếu thốn. Người ta không thể trị được chứng bệnh chết người này nên chỉ còn mong đợi vào sự che chở của đấng bề trên mà thôi.

Không thể ngồi yên nhìn cảnh đau thương, ông bà Câu Lãnh liền lập bàn thờ ngoài trời nguyện xin ơn trên cho ông bà chết thay cho dân làng. Một tuần sau, bà thọ bệnh từ trần. Đang lo tẩm liệm bà thì hai ngày sau ông cũng qui tiên. Dân làng lo mai táng ông bà xong thì đợt dịch bệnh cũng chấm dứt. Mọi người thoát khỏi móng vuốt của thần chết. Ơn đức của ông bà được mọi người truyền tụng.

Đến năm 1907, nhân dân xã Mỹ Trà cùng nhau lập miếu thờ và đặt tên chợ gần nơi ông bà định cư là chợ Câu Lãnh. Dần dần tiếng Câu nói trại thành Cao. Và Cao Lãnh được nhìn nhận như một địa phương từ năm 1914. Năm 1916, có một nhóm người từ Bình Định vào định cư tại Cao Lãnh bị mắc chứng bệnh khắc phong thổ, uống thuốc hoài không hết. Họ bèn vào miễu cầu nguyện được ông bà báo mộng bảo lấy nước trong miễu uống. Mọi người làm theo lời báo mộng ấy và quả nhiên đã khỏi bệnh. Tiếng lành về sự linh thiêng của ông bà Câu Lãnh lan truyền khắp nơi và nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ.

Sau năm 1975, hai tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Phong đã sát nhập lại thành tỉnh Đồng Tháp. Nơi đặt văn phòng ủy ban hành chính tỉnh được gọi là thị xã Cao Lãnh. Thị xã nằm bên bờ sông Cao Lãnh có chiều dài khoảng 15km, là một đoạn sông Tiền tách ra chảy qua thị xã Cao Lãnh rồi sau đó lại nhập vào sông Tiền và đổ ra biển Đông. Ngày nay với sự đầu tư hợp lý và đúng mức của các ban ngành lãnh đạo tỉnh, thị xã Cao Lãnh trở thành trung tâm kinh tế trọng yếu của vùng Đồng Tháp Mười.

Từ thị xã Cao Lãnh chúng ta có thể đi tham quan khu di tích Gò Tháp, khu di tích kiến trúc cổ Kiến An Cung, vườn chim sếu quí hiếm Tam Nông cũng như các vườn cây ăn trái nổi tiếng ở Châu Thành, Lai Vung, Thạnh Hưng… và ở ngay thị xã Cao Lãnh chúng ta có thể thăm mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc. Một người giàu lòng yêu nước và là đấng sinh thành của một nhân vật ưu tú của dân tộc Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Khu Di Tích Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929)

Tháng 8 năm 1975, lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp đã cho xây lại ngôi mộ cụ khang trang, đẹp đẽ hơn. Trên vòm mộ là hình một cánh sen úp xuống có chạm trổ 9 đầu rồng mang ý nghĩa tượng trưng cho con Rồng cháu Tiên, đồng thời bao hàm ý nghĩa là cụ Nguyễn Sinh Sắc sẽ mãi mãi yên nghỉ trong sự che chở, kính trọng của người dân đồng bằng sông cửu long. Bên cạnh ngôi mộ là tượng đài cách điệu hình búp sen, tượng trưng cho người con làng sen đã sống thanh cao và trong sạch. Xung quanh chân tượng đài là hồ nước.

Nếu để ý một chút, quý khách sẽ thấy rằng hình thể của hồ nước rất giống phần diện tích của tỉnh Đồng Tháp trên bản đồ. Trong khuôn viên khu mộ rộng 1 hécta, còn có nơi thờ bà Hoàng Thị Loan, người vợ yêu quý của cụ phó bảng và một ngôi nhà sàn được xây dựng theo đúng kích thước ngôi nhà sàn nơi Bác Hồ đã sống và làm việc tại Hà Nội.

Vài Nét Về Khu Lưu Niệm Nguyễn Sinh Sắc:

Khu lưu niệm Nguyễn Sinh Sắc nằm cạnh chùa Hòa Long (tức Miễu Trời Xanh ngày xưa) cách trung tâm thị xã Cao Lãnh chừng một cây số rưỡi, trên đất qua bên phà Cao lãnh.

Toàn khu lưu niệm rộng gần 4 hec ta, chia làm hai khu vực: khu vực mộ cụ phó bảng, khu vực Nhà Sàn – Ao Cá Bác Hồ. Qua cổng, du khách gặp ngay nhà khách khang trang phía tay phải. Đây cũng là nơi làm việc của Ban giám Đốc khu lưu niệm. Trong đó có phòng chiếu phim tài liệu phục vụ du khách.

Theo lối đi tráng nhựa, một bên là hàng vú sữa, một bên là hàng dương thẳng tấp. Chừng 100m rẽ về phía tay trái đến cổng tam quan – cổng chính vào khu mộ cụ phó bảng. Khu vực này hình chữ nhật, diện tích 1 hecta. Bao bọc chung quanh là hàng rào xi-măng đơn giản, thanh mảnh như những hoa văn trang hoàng vẻ đẹp của khuôn viên mà không làm khu mộ cách bức với vườn ruộng xanh tươi bên ngoài. Khu mộ khởi công xây dựng ngày 22-8-1975, khánh thành ngày 13-2-1977.

Những công trình chính là: Vòm mộ, hồ Sao, nhà Kiếng và nhà trưng bày.

Vòm Mộ:

Quay về phía Đông, cao trên 10 thước, là một cánh hoa sen cách điệu có dáng dấp bàn tay xòe úp xuống, trên là 9 đầu rồng cách điệu đậm nét dân gian. Vòm mộ tượng trưng cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp che chở, ấp yêu ngôi mộ phó bảng…

Ngôi mộ giữ vị trí cũ, đầu tiên là ngôi mộ đất, sau đó nhân dân đổ núm xi măng. Năm 1954, trước khi tập kết chuyển quân ra Bắc, các đơn vị bộ đội đã xây ngôi mộ bằng gạch, có trụ xi măng và lan can sắt bao chung quanh. Bia mộ ghi : “cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy – Nhà chiến sĩ cách mạng – mất ngày 27-11 năm Kỷ Tỵ (1929). Quân dân chánh Long Châu Sa lập”.

Hiện nay, ngôi mộ được tôn cao lên và ốp đá hoa cương. Núm mộ hình hộp chữ nhật (2m x 1m x 0.9m), màu xám tro, yên vị trên vòm mộ bằng đá mài màu trắng, hình lục giác không đều mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Phía trong vòm mộ là bệ thờ bằng đá mài. Bên trên có tượng chân dung cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, lư hương đặt ở phía ngoài núm mộ.

Hồ Sao:

Nằm giữa khu vực, hình ngôi sao năm cánh, đường kính 30m. Ở giữa hồ sừng sững một đài sen trắng cách điệu ốp đá Italy màu trắng xám, cao 6,5m tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch, trong sáng của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, cũng là biểu tượng quê hương Kim Liên _ Đồng Tháp vươn thẳng giữa lòng tổ quốc Việt Nam.

Hồ Sao

Nhà Kiếng:

Cách hồ Sao 30m, phía tay phải (trong nhìn ra), nhà kiếng hình chữ nhật thể hiện theo kiểu dáng nhà sàn. Ngoài những mảnh tường thấp và cốt ximăng tô đá rửa, các phòng đều lắp đặt kính 5 ly (nên gọi nhà Kiếng) .

Nhà kiếng cũng là nhà khách trong những buổi tiếp tân đông người. Các phòng tại đây đều thoáng rộng, được trưng bày màu xanh dịu mát. Các hình ảnh chủ yếu giới thiệu về quê hương, thời niên thiếu của Bác Hồ.

Nhà trưng bày:

Đối diện nhà kiếng qua cột cờ giữa sân, gây thú vị cho du khách với lối kiến trúc hình bát giác vụt cao hẳn lên so với dãy nhà hình hộp chữ nhật nối liền với nó.

Phòng trưng bày về cụ Nguyễn Sinh Sắc:

Nằm gọn trong hình bát giác (mỗi cạnh 5m), nền bằng đá rửa trắng lấm tấm hạt đen. Đai trưng bày màu vàng sậm, viền nâu trên nền tường xanh lợt với 4 chỗ thông gió chia đều. Vách và nóc cách nhau một khoảng trống dễ nhận ánh sáng mặt trời cũng như việc bố trí thêm đèn ne-on. Ở đây du khách nhìn thấy ngay bản tiểu sử tóm tắt của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lồng trong khung kính bằng gỗ giáng hương, chữ lộng màu trắng nổi lên trên nền nhung đỏ. Bản tiểu sử đặt trên bệ gỗ tròn thay cho tấm bình phong chia làm hai lối ra vào.

Theo chiều kim đồng hồ, du khách lần lượt tham quan các hình ảnh, hiện vật về cuộc đời cụ phó bảng. Có thể nêu 6 chủ đề chính:

Chủ đê 1: Quê Hương – Thời Niên Thiếu Thưở Hàn Vi

Chủ đề 2: Đỗ Đạt – Làm Quan

chủ đề 3: Từ Quan – Vào Nam

Chủ đề 4: Cao Lãnh Và Những Năm Cuối Đời

Chủ đề 5: Những Di Vật Của Cụ Phó Bảng

Chủ đề 6: Bảo Vệ Và Xây Dựng Mộ Cụ Phó Bảng

Đến viếng thăm mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc là chúng ta đã viếng thăm cả gia đình chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã cống hiến cả cuộc đời của mình cho tổ quốc cho dân tộc.

Cuộc Đời Cụ Nguyễn Sinh Sắc:

Theo gia phả họ Nguyễn Sinh ở Kim Liên, cách đây trên bốn trăm năm, ông Nguyễn Bá Phổ đến và khởi dựng ra dòng họ Nguyễn ở đây. Đến thế hệ thứ tư, Nguyễn Sinh dần đổi tên Nguyễn Bá ra Nguyễn Sinh.

Thế hệ thứ năm có ông Nguyễn Sinh Vật dự kỳ thi hội năm Tân Mão (1651).

Thế hệ thứ sáu, Nguyễn Sinh Trí, năm 17 tuổi dự kỳ thi Hương khoa Quý Sửu (1673) đậu Hiệu sinh (Tú Tài). Năm ba mươi tư tuổi dự kỳ thi Hội khoa Canh Ngọ nhưng chỉ lọt đến Tam trường.

Thế hệ thứ tám Nguyễn Sinh Hải, lập chiến công to, được vua Lê Cảnh Hưng phong sắc khen thưởng.

Ông nội Bác Hồ là Nguyễn Sinh Nhậm (tức là Nguyễn Sinh Vượng) thuộc thế hệ thứ mười. Gia đình ông vào loại khá giả ở Làng Sen. Ông lập gia đình sớm nhưng hiếm con. Khi sinh người con trai là Nguyễn Sinh Trợ (sau nhân dân thường gọi là Nguyễn Sinh Thuyết) thì bà Nhậm mất. Nuôi con đến tuổi thành niên và lập gia đình riêng cho con, ông mới cưới người vợ kế là Hà Thị Hy. Một cô gái có nhan sắc, thông minh tài hoa ở làng Mậu Tài (làng Sày) cùng thuộc xã Chung Cự. Bà Hy là con gái ông Hà Văn Cẩn, một người nổi tiếng về đàn hát, thuộc bậc trung lưu.

Nhà ông thường nuôi thầy dạy học cho con cái nhưng ông lại không màng chuyện thi cử. Bà Hà Thị Hy được cha rất mực yêu quý, truyền cho tất cả vốn hiểu biết của mình về sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật của quê hương xứ sở. Bà Hà Thị Hy về làm bạn đời với ông Nguyễn Sinh Nhậm được ít lâu, cuối năm Nhâm Tuất (1863) sinh con trai, đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc. Cuộc sống của gia đình rất êm ấm. Nguyễn Sinh Sắc mới ba tuổi thì ông Nguyễn Sinh Nhậm qua đời. Sau đó một năm bà Hà Thị Hy cũng tạ thế. Nguyễn Sinh Sắc mồ côi cha lẫn mẹ lúc bốn tuổi, phải ở với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ.

Gia đình Nguyễn Sinh Trợ lúc này đang sa sút, gặp nhiều khó khăn, Nguyễn Sinh Sắc không có điều kiện cắp sách tới trường. Nhưng Nguyễn Sinh Sắc là chú bé thông minh, hiếu học và khát học nên đã học lỏm được ở bạn bè ít chữ nghĩa. Thường ngày, buổi sáng dắt trâu ra đồng, khi đi qua cổng nhà thầy đồ Vương Thúc Mậu, bé Sắc thường cột trâu lại dưới gốc cây tre và đứng nghe thầy đồ giảng bài, có lúc mải mê quên cho trâu ra đồng ăn cỏ.

Ngày ấy cụ Hoàng Đường, một thầy đồ ở làng Hoàng Trù được nhân dân tôn kính gọi là cụ Tú, thường đi lại thăm bà con bên ngoại ở làng Kim Liên và thỉnh thoảng ghé thăm cụ Vương Thúc Mậu, bạn bè cùng lớp. Những lần đến Kim Liên cụ thường thấy một chú bé ngồi trên lưng trâu chăm chú đọc sách. Vốn là một thầy đồ quý mến trò, cụ rất có cảm tình với chú bé hiếu học ấy.

Ngày tết Mậu Dần (1878), khi hầu hết trẻ con trong làng Kim Liên đang mải mê với các trò chơi tết, cụ Đường lại thấy chú bé ấy vẫn đọc sách trên lưng trâu. Cảnh tượng đó đã gây cho cụ niềm xúc động sâu sắc. Cụ hỏi tên tuổi và hoàn cảnh cậu bé rồi đến gặp ông Nguyễn Sinh Trợ xin đưa bé Sắc về nhà mình nuôi dạy. Vì hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn và tin tưởng ở cụ Đường, nên vợ chồng ông Trợ đồng ý.

Từ đó, Nguyễn Sinh Sắc có đủ điều kiện để học hành. Nhờ sự chăm sóc dạy dỗ của cụ Đường, và đúng như dự cảm của cụ, Nguyễn Sinh Sắc học tập tấn tới rất nhanh. Chẳng bao lâu, thiên tư của Nguyễn Sinh Sắc bộc lộ ngày càng rõ, hứa hẹn một tương lai tươi sáng trên con đường cử nghiệp. Tiếng tăm học giỏi của Nguyễn Sinh Sắc đồn đại khắp vùng. Hồi đó, ở làng Kim Liên có Nguyễn Đậu Tài học giỏi nổi tiếng, được nhân dân suy tôn là “thần đồng”. Lúc này cả vùng Chung Cự thường truyền nhau câu “Sắc, Tài ai kém ai đâu” để ca tụng hai người học giỏi. Sau hai năm học tập, Nguyễn Sinh Sắc có thể đàm đạo văn thơ với những học sinh lớp trước.

Cụ Đường thương yêu Nguyễn Sinh Sắc như con đẻ. Sau hai năm, cảm thấy trình độ mình có hạn, cụ quyết định gửi Nguyễn Sinh Sắc đến làng Đông Chữ, xã Thịnh Trường (nay là xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc) cách Hoàng Trù trên 30km để học với thầy đồ Nguyễn Thức Tự, người nổi tiếng uyên bác và có lòng yêu nước.

Vợ cụ Hoàng Đường quê ở làng Kẻ Sía, xã Hưng Đạo. Huyện Hưng Nguyên, là con nhà nho Nguyễn Văn Giáp, người đậu bốn khoa tú tài. Khi cụ Nguyễn Văn Giáp đậu tú tài lần thứ hai cũng là lúc vợ sinh con gái đầu lòng cho nên đặt tên con là Nguyễn Thị Kép.

Ba năm sau, khi Nguyễn Sinh Sắc đã đến tuổi thành niên, cô Hoàng Thị Loan, con gái đầu lòng của cụ Đường cũng đã lớn và ngày càng có cảm tình với cậu con trai thông minh và tốt nết ấy. Cụ Đường quyết định chọn Nguyễn Sinh Sắc làm con rể của mình. Ý định này của cụ lúc đầu chưa được cụ bà Nguyễn Thị Kép đồng tình vì không môn đăng hộ đối. Cụ phải kiên trì bàn bạc, tìm mọi cách thuyết phục. Cụ Nguyễn Văn Giáp là nhà nho tân tiến nên đã ủng hộ ý định của con rể, khuyên nhủ con gái mình nên yêu thương, đùm bọc lấy người có tài, có đức gặp phải hoàn cảnh éo le.

Cuối năm 1881, Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan làm lễ hứa hôn. Hai năm sau (1883) đám cưới được tổ chức tại làng Hoàng Trù. Ông bà cụ Hoàng Đường đã dựng ngôi nhà tranh ba gian trong vườn nhà mình để cho đôi vợ chồng mới cưới có chỗ ở riêng.

Năm 1884, vợ chồng ông Nguyễn Sinh Sắc sinh người con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh (Bạch Liên). Bốn năm sau (1888) sinh con trai Nguyễn Sinh Khiêm (Tất Đạt). Năm 1890 cậu bé Nguyễn Sinh Cung (Tất Thành) ra đời. Đồng thời, năm đó ông Nguyễn Sinh Sắc trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh của huyện Nam Đàn do Huấn đạo phủ Anh Sơn và Giáo thụ huyện Nam Đàn tổ chức.

Khoa thi Tân Mão (1891) ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi Hương lần đầu tại trường Nghệ An (Vinh) cùng với Vương Thúc Quý và Nguyễn Đậu Tài ở làng Kim Liên. Nguyễn Đậu Tài phải bỏ thi về lo tang cha. Vương thúc quý đậu cử nhân. Còn Nguyễn Sinh Sắc chỉ lọt nhị trường, không đủ điểm vào thi Tam trường.

Ngày mồng 7 tháng 4 năm Quý Tỵ (1893) cụ Hoàng Đường qua đời. Băn khoăn lớn về việc chưa đỗ đạt để báo hiếu với cụ Đường, ông Nguyễn Sinh Sắc đã quyết tâm ôn tập, rèn luyện văn chương. Khoa thi Hương Giáp Ngọ (1894) ông đậu Cử Nhân.

Sau lễ xướng danh kỳ thi Hương khoa Giáp Ngọ ở trường thi Nghệ An, Tổng đốc An Tĩnh Trần Văn Phác tiếp các Tân Khoa Cử Nhân ở hành cung. Làm lễ bái mạng và yến tiệc xong, họ ngâm vịnh hát xướng đến tận khuya. Đúng giờ Ngọ (12 giờ trưa) hôm sau, các huyện, xã đến đón rước các vị Tân khoa về làm lễ vinh quy.

Ông Nguyễn Sinh Sắc không dự lễ hát xướng mà về nghỉ tại nhà một người bà con họ Hoàng Nghĩa (bà con bên cụ Đường) ở Vinh. Rạng sáng hôm sau, ông cắp bộ áo mũ Cử Nhân và chiếc ô đi bộ về làng. Trong khi đó trên đường từ Vinh về Nam Đàn có các đoàn cờ trống, võng lọng đi đón rước những người đậu đồng khoa với ông, cùng quê ở Nam Đàn.

Vốn không muốn khoa trương danh vị về làng, ông Sắc lấy lý do đang chịu tang bố vợ, không tổ chức ăn mừng mà chỉ làm lễ bái ở nhà thờ, nhà thánh, rồi chuẩn bị ôn luyện để năm sau thi Hội.

Nhiều người tấm tắc khen ngợi, khâm phục về đức khiêm tốn giản dị của ông. Song cũng không thiếu gì người cho rằng ông làm như vậy là không đúng với nghi thức đón rước Tân khoa.

Giữa năm 1895, lần đầu tiên ông Sắc vào Kinh đô Huế dự thi hội khoa Ất Vị. Khoa này không đậu, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám. Theo thể lệ của Triều đình hồi đó, muốn vào học trường Quốc Tự Giám phải có tiêu chuẩn sau đây:

Tôn sinh (con cháu các Tôn thất) do phủ Tôn nhân giới thiệu.

Ấm sinh (con quan lại cao cấp) ưu tiên loại 2.

Cử nhân đã trúng thi Hội một kỳ.

Ông Nguyễn Sinh Sắc đã trúng thi hội một kỳ nên được chấp nhận vào học.

Sinh viên trường Quốc Tử Giám hồi đó được cấp học bổng theo hai hạng. Hạng 1 là hạng ưu tiên, mỗi tháng được 4 quan tiền, 3 phương gạo, 1 phương dầu. Hạng 2, mỗi tháng được 2 quan tiền và 2 phương gạo.

Ông Nguyễn Sinh Sắc được cấp học bổng hạng 2, gia đình lại không có tiền gạo cấp thêm nên không đủ điều kiện kinh tế theo học. Nhưng với tấm lòng tha thiết học tập, ông đã trở về Hoàng Trù bàn với vợ giúp mình. Bà Hoàng Thị Loan vui vẻ gửi người con gái đầu lòng ở nhà bà ngoại, đưa hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung cùng chồng vào kinh đô Huế lao động để giúp chồng ăn học.

Sau hàng tháng trời chạy vạy tìm kiếm, vợ chồng ông Sắc mới thuê được một gian nhà nhỏ trong Thành Nội.

Giữa đất đế đô, bà Loan phải tự lao động để nuôi sống mình, con cái và chồng ăn học bằng nghề dệt vải truyền thống. Cuộc sống gia đình chật vật đến mức ngày tết cũng không may nổi cho con tấm áo mới.

Năm 1898 khoa Mậu Tuất, ông Sắc dự thi hội lần thứ hai vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình ông ngày càng vất vả, gieo neo. Thông cảm với cảnh ngộ ấy, ông Đinh Viết Chuyên, một quan nhỏ thuộc bộ hình trong triều đình Huế đã đưa ông Sắc về mở lớp dạy học trong nhà ông Nguyễn Sĩ Độ tại làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, Thừa Thiên. Nhờ vậy ông Sắc có thêm điều kiện nuôi sống mình và hai con; đồng thời có thể ôn tập, tu luyện văn chương dự thi Hội trong khoa tới.

Hai năm dạy học ở làng Dương Nỗ (1898-1900), ông Sắc đã để lại hình ảnh đẹp về thầy đồ xứ Nghệ trong mọi tầng lớp nhân dân Huế, Thừa Thiên.

Tháng Tám năm Canh Tý (1900), khoa thi Hương mở, ông Nguyễn Sinh Sắc lúc này tuy vẫn là một chân Cử nhân trơn (dân thường), nhưng vì văn hay, chữ tốt, có tín nhiệm nên phó Chủ khảo trường thi Thanh Hóa là Tiến Sĩ Trần Đình Phong đã đưa ông Sắc đi làm Đề lại (thư ký) cho trường thi Thanh Hóa. Cậu Nguyễn Sinh Khiêm được đưa đi cùng để giúp đỡ ông trong sinh hoạt hàng ngày. Còn cậu Nguyễn Sinh Cung thì trở về Huế sống với mẹ.

Công việc chấm thi ở Thanh Hóa kết thúc, ông Sắc đưa Nguyễn Sinh Khiêm về thăm bà ngoại là Nguyễn Thị Kép ở Hoàng Trù và tu sửa phần mộ cho cha ở Kim Liên, mãi tới tết Tân Sửu (1901) vẫn chưa trở lại Kinh đô Huế.

Thời gian này, ở Huế, bà Hoàng Thị Loan sinh thêm người con thứ tư. Sinh con trong cảnh túng thiếu, phải nhờ bà con lao động láng giềng giúp đỡ, bà Loan lấy cảnh ngộ ấy đặt tên cho con là Nguyễn Sinh Xin (tên chữ là Nguyễn Sinh Nhuận).

Sau khi sinh cậu Xin, bà Loan đau ốm liên miên. Căn bệnh hiểm nghèo đã làm tim bà ngừng đập đột ngột vào lúc gần trưa ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901). Bà Hoàng Thị Loan từ giã cõi đời lúc vừa bước sang tuổi ba mươi ba. Khi bà mất ông Nguyễn Sinh Sắc và hai người con là Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Khiêm đang ở quê hương Hoàng Trù, còn ở Huế. Nguyễn Sinh Cung vừa mười tuổi, Nguyễn Sinh Xin mới được mấy tháng tuổi.

Thi hài bà Loan được bà con láng giềng trong thành nội đưa qua cống Thành Long, ra khỏi thành nội, vượt sông Hương lên táng tại chân núi Ba Tầng thuộc dãy núi Ngự Bình – gần nơi Nguyễn Huệ lập thiết đàn lên ngôi Hoàng Đế ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), rồi hành quân cấp tốc ra Bắc Hà đại phá 20 vạn quân Thanh trong tết Kỷ Dậu (1789).

Trong căn nhà nhỏ, sau cổng Đông Ba thuộc khu Thành Nội Huế, Nguyễn Sinh Cung phải bồng bế, nuôi nấng em Nguyễn Sinh Xin và đón xuân Tân Sửu trong nỗi đau buồn vô hạn vì mất mẹ, vắng cha, vắng anh, vắng chị.

Giữa tết Tân Sửu, ở Hoàng Trù nhận được tin đại bất hạnh đó, ông Sắc vô cùng đau đớn, vội vàng trở vào Huế. Cảnh tang thương đã đè nặng lên người ông Nguyễn Sinh Sắc. Không thể sống trong cảnh gà trống nuôi con ở đất đế đô, ông Sắc cùng cậu Cung thay nhau bồng bế cậu Xin trở về Hoàng Trù.

Lúc này cuộc sống gia đình ông khó khăn chồng chất. Tuổi đời đã gần 40, vợ mất, một tổn thất lớn làm mất thăng bằng cuộc sống của ông. Cha con không nguồn thu nhập, không kế sinh nhai, tất cả đều dựa vào cụ Nguyễn Thị Kép. Nhưng tuổi già sức yếu, con gái qua đời đột ngột làm cụ càng yếu thêm. Vô cùng thương tiếc người vợ hiền, tận tụy trọn đời vì sự nghiệp của mình, ông Sắc quyết tâm tiếp tục vào kinh đô Huế dự thi hội khoa Tân Sửu để lập công đền đáp công ơn người vợ hiền.

Được cụ Kép và bà con xóm làng khuyến khích, giúp đỡ tận tình, ông đã gửi các con lại quê nhà rồi kịp vào Kinh đô Huế dự thi. Sau hơn hai mươi năm khổ học, tu luyện văn chương, kỳ thi Hội này ông đậu Phó Bảng.

Một vị đại thần trong triều đình Huế phục tài học của ông Sắc đã làm câu đối mừng:

Độc quần đại đình văn sở trần cô phi bình trị quy mô, chân hảo đắc Đông Quảng Xuyên chi học.

Văn quân sinh nhật ngữ nhập nội tất dĩ ý thành tâm chính quả bất phụ Chu Khảo Đình sở ngôn.

Dịch nghĩa: đọc văn đại đình khoa của anh điều trình bày không ngoài quy mô bình trị, thật anh có được tài học như Đông Quảng Xuyên.

Nghe lời anh nói hàng ngày thấy rõ ý thật lòng ngay, thật không phụ lời nói của Chu Khảo Đình.

Cử nhân Vương Thúc Quý thay mặt nhân dân Kim Liên viết bài trướng văn trong đó có đoạn:

“Nguyễn hiền đài sau lần hội chí, trở về quê Nghệ An, đem theo vợ con dắt díu vào Nam. Bản thân học Quốc Tử Giám, gia đình trọ trốn kinh Đô. Ngày hai bữa cháo cơm đạm bạc, ăn chẳng bao nhiêu, mà học nghiệp ngày càng tinh tấn. Ôi, gọi là “Phú” mà đất trắng không, xướng là “Kim” mà phận nghèo lại túng. Lại nữa, trời độ người thanh, mộng vàng chợt tỉnh: xưa giao cầm nâng gẫy mà lòng riêng chợt cảm, nay tuổi trung niên đã ôm mối tình chung, Gân sức rã rời mà vẫn cứ ruổi rong. Ý là, gặp cảnh ngộ thì gắng chịu đến tận cùng cảnh ngộ. Nhảy, bay đã rõ giống giao long!

Mới hay, duyên cớ đủ thì kiến ong tự đến, văn chương hay lọ phải gượng làm văn. Vậy nên, lửa cháy nổ vang, phiến gỗ đồng thành cây đàn tiêu vĩ. Đỉnh núi thu ý chực vút xung thiên, nhành mai lạnh khai đầu hoa nở sớm. Nhị giáp cây trồng lần trước, tam trường rạng rỡ nghiệp xưa. Gọi mở lòng người về vận thế, văn chương. Thật đáng chúc mừng, đáng để chúc mừng. Mà công lao của Nho học đối với triều đình làng nước cũng là ở đây, ở chỗ này đây.

Xin bày tỏ mấy lời thơ vụng, vui cùng người áo gấm vinh quy”.

Kể từ khoa thi Hội Tân Sửu (1901), những người đậu Phó bảng bắt đầu được hưởng 2 đặc ân của chính bảng là được vua ban cờ, biển và cho hưởng lễ vinh quy bái tổ. Vì thế trong lễ xướng danh, ông Nguyễn Sinh Sắc được vua Thành Thái tặng biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn ban cho gia đình tốt) và cấp phương tiện đưa về tận tỉnh lỵ Vinh.

Tổng đốc An Tĩnh lúc đó là Đào Tấn đã sức cho lý trưởng các làng thuộc xã Chung Cự huy động nhân dân đưa võng, lọng cờ, trống lên tỉnh rước ông Phó bảng tân khoa về Kim Liên vinh quy bái tổ.

Hồi đó nghi thức này là một vinh dự rất lớn đối với các nho sinh thành đạt. Nhưng ông Nguyễn Sinh Sắc chỉ dự lễ đón tiếp chung do quan Tổng đốc tổ chức rồi không chờ dân làng đến rước, một mình đi bộ về nhà. Đến cầu Hữu Biệt (cầu Mượu), cách làng Hoàng Trù 4km, ông đã gặp dân làng xã Chung Cự mang võng, lọng, cờ, trống trên đường xuống Vinh để rước ông về. Gặp ông giữa đường, nhân dân mừng rỡ liền trương lọng, tung cờ, nổi trống, đăng võng mời ông Phó bảng nằm lên để cho dân làng được rước lễ vinh quy.

Ông thưa lại: “Tôi đậu chẳng có ích gì cho bà con làng xóm mà bà con phải đón rước?” Dân làng thưa với quan Phó bảng: “Từ xưa đến nay làng Kim Liên ta mới có quan đậu đại khoa làm vẻ vang cho làng nước. Xin được rước lễ vinh quy cho thỏa lòng mong ước bấy lâu nay”.

Ông Sắc một mực từ chối nên cuối cùng dân làng đành phải lặng trống, xếp võng, xếp lọng cùng quan Phó bảng đi bộ trở về.

Theo tập tục địa phương và nguyện vọng bà con họ Nguyễn Sinh, ông Sắc vinh quy về quê nội Kim Liên.

Lần đậu Cử nhân, ông đã không tổ chức ăn mừng. Nay đậu Phó bảng, nhân dân xã Chung Cự trích hai trăm quan tiền quỹ nghĩa thương và ruộng thánh để ông làm chỗ khao. Lúc đầu ông vẫn từ chối, nhưng vì lệ làng buộc ông phải nhận. Song ông lấy lý do là đang có tang vợ, không nên tổ chức ăn mừng. Ông chỉ nhận 10 quan tiền mua trầu, nước mời dân làng, còn lại ông bàn với hội đồng kỳ mục đem chia cho người nghèo đói trong làng làm vốn. Ông còn thân hành xuống tận từng xóm hướng dẫn bà con lấy tiền đó mua nguyên vật liệu về làm nghề thủ công đan thúng mủng, rổ rá… bán lấy tiền sinh sống. Vốn đó có nơi còn giữ mãi đến năm 1945.

Sau khi vinh quy về làng Kim liên, ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con sống một cuộc sống thanh bạch, đầm ấm trong ngôi nhà tranh năm gian do xã Chung Cự và bà con hai họ Nguyễn Sinh, Hoàng Xuân làm cho.

Triều đình Huế mời ông Sắc đi làm quan, nhưng ông lấy lý do “bị bệnh ở lại quê quán uống thuốc” để từ chối. Ông viết lên xà nhà mấy chữ: “Vật dĩ quan gia, vi ngô phong dạng” (đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình) để răn dạy con.

Ông Sắc rất quan tâm đến việc học hành của con cái. Ông cho con trai đến học với Cử nhân Vương Thúc Quý (là con trai Tú tài Vương Thúc mậu, lãnh tụ Cần Vương chống Pháp ở núi Chung), bạn thân của ông và là một trong “tứ hồ” của Nam Đà.

Sau khi đậu Phó bảng, ông Nguyễn Sinh Sắc còn có điều kiện đàm dạo thời cuộc với Phan Bội Châu và các sĩ phu yêu nước trong vùng. Năm 1903 nhân dân Võ Liệt, huyện Thanh Chương, một vùng có truyền thống hiếu học và yêu nước, nghe tin ông Nguyễn Sinh Sắc là người có học vấn uyên bác, văn hay chữ tốt, có đạo đức trong sáng, liền cử ông Phan Sĩ Mậu (còn gọi là ông Đồ Cẩm) xuống tận Kim Liên mời ông lên dạy học tại nhà ông Nguyễn Thế Vấn.

Gần một năm dạy học ở đó, ông đã để lại hình ảnh đẹp của người thầy giáo, có ảnh hưởng tốt trong học trò. Có người kể rằng: những đêm học trò đến hỏi bài khuya quá không thể về nhà, được ông cho ngủ cùng giường. Ông thường khuyên học trò đã đi học thì phải chăm học để đi thi. Nếu đi thi có đỗ thì cũng không nên làm quan. Vì làm quan là áp bức, bóc lột, đè nén dân.

Ông không coi việc học trò thi cử đậu đạt cao, làm quan to là dấu hiệu vinh hiển của người thầy giáo. Đây là điều khác biệt giữa thầy đồ nho Nguyễn Sinh Sắc với các thầy đồ nho khác ở trong vùng. Hai mươi sáu năm sau (1929), nghe tin ông đã tạ thế ở Cao Lãnh, Đồng Tháp, học sinh ở Thanh Chương làm đôi câu đối để viếng thầy trong đó có một vế như sau:

“nhớ thầy xưa thiếu niên cô khổ, học hành tài giỏi đậu Hương đậu Hội, nhà chẳng có, quan chẳng làm, nuôi con trưởng thành một gái hai trai”.

Khoảng năm 1904, sau khi dạy học ở Thanh Chương một năm, ông chuyển sang dạy học ở nhà Nguyễn Bá Uy thuộc làng Du Đồng, huyện Đức Thọ. Sau đó ông đi khắp các vùng trong tỉnh gặp các nhân sĩ yêu nước. Đến làng Đông Thái, quê hương của cụ Phan Đình Phùng; đến làng Trung lễ, quê hương của Lê Ninh; có vài lần ông đưa cậu Nguyễn Sinh Cung đến làng Trung Cần, quê hương của Thám hoa Nguyễn Đức Giao; lên núi Thiên Nhẫn, thăm di tích lịch sử thành Lục Niên, đại bản doanh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, được xây dựng từ năm 1424 chống quân xâm lược nhà Minh; một trí thức nổi tiếng thời Tây Sơn.

Có khi ông ra đến tận huyện Diễn Châu thăm ông Võ Tất Đắc, một tri huyện ở Thanh Hĩa, cáo quan về ở làng Vạn Phần (nay xã Diễn Vạn), thăm ông Võ Khang Tế ở làng Hậu Luật (nay là xã Diễn Bình), trước là Tương Tán Quân vụ trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp của cụ Nghè Nguyễn Xuân On về ở tại đây. Ong lên xã Tràng Sơn, huyện Yên Thành, thăm con cháu Lê Doãn Nhã, một lãnh tụ chống Pháp, ra làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu. Có lần ông ra đến tận huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, đàm đạo thời cuộc với các sĩ phu ở ngoài Bắc, trong đó có người con trai lãnh tụ chống Pháp Nguyễn Quang Bích, là cậu ấm Nguyễn Quang Đoan.

Những nơi ông đến là những nơi có phong trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi và anh dũng. Những người ông kết giao đều là những người có lòng yêu nước, có chí cứu nước. Trong lúc đàm đạo thời cuộc với các nhà nho yêu nước, ông Nguyễn Sinh Sắc thường phê phán lối học của các cụ đương thời là “chi điệp, chi văn” (lối văn trên cành, trên lá), là không thiết thực. Tại sao cuộc chiến đấu của phong trào khởi nghĩa Phan Đình Phùng, khởi nghĩa của Nguyễn Xuân On rất sôi động và oanh liệt, nhưng kết cục không thắng lợi được là đề tài các cụ thường đàm luận. Các cụ thường bàn nhiều đến việc làm thế nào để giải phóng đất nước, làm sao cho dân khỏi khổ…

Những cuộc đàm luận này đã có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng yêu nước của Nguyễn Sinh Cung, góp phần giúp cậu có nhiều suy nghĩ về con đường sẽ lựa chọn sau này.

Trong gia đình, Nguyễn Sinh Cung là người được ông yêu thương, và đặt nhiều hy vọng nhất, đi đâu cũng thường được cho đi cùng. Nhờ vậy mọi việc làm, mọi lời nói, mọi cử chỉ hàng ngày của ông Sắc đều đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc tới cậu.

Thực tế sôi động của nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung, cùng với nỗi niềm tâm sự của ông Sắc và các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ đã làm cho cậu đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Khi nghe tin bọn thực dân Pháp tuyên truyền ba mục tiêu lớn của cuộc đại cách mạng tư sản Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”, cậu đã suy nghĩ nhiều và muốn tìm hiểu bản chất của nó. Cậu thấy thái độ và chính sách của thực dân Pháp diễn ra ở các vùng mình đã đi qua đều trái hẳn với điều chúng nói. Thực tế đó càng thôi thúc cậu muốn tiếp xúc với nền văn minh Pháp để khám phá ra sự thật.

Về sau, Người đã nhắc lại những ý nghĩ của mình trong giai đoạn này: “vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái…” thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy”.

Giai đoạn này, ông Nguyễn Sinh Sắc đang hết sức quan tâm đến vận mệnh của đất nước. Nhưng làm thế nào để cứu nước thì ông vẫn chưa xác định được. Ông không tin hoạt động của những sĩ phu yêu nước lúc đó là có thể thành công. Tâm trạng này đã thể hiện trong câu đối mừng người bạn là Nguyễn Tài Tốn đậu cử nhân khoa bính ngọ (1906).

Ngô bối do hòe vi cức viện tiến thân, hiện tại chỉ khán đàm giáp ất.

Tiên công dĩ đại bút hùng văn minh thế tái sinh tằng phủ chí canh tân.

Dịch nghĩa:

Bọn ta từ chốn trường thi mà làm nên danh vọng, thế nhưng bây giờ đây chỉ ngồi bàn thứ tự cao thấp mà thôi.

Các bậc đời trước lấy bút mạnh văn hùng thức tỉnh đời, ví bằng có sống lại thì cũng khó làm nổi việc canh tân.

Vì thế ông không hành động theo một tổ chức nào. Kể cả phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, bạn chí thân của ông. Đây là ngã rẽ lối giữa Nguyễn Sinh Sắc và Phan Bội Châu. Hai ông cùng chung tư tưởng yêu nước và mục đích cứu nước, nhưng làm thế nào để cứu nước thì mỗi người suy nghĩ và hành động theo một hướng.

Nhờ ảnh hưởng tư tưởng của cha, kết hợp với sự nhạy cảm về chính trị của bản thân, Nguyễn Sinh Cung, đã biết từ chối con đường Đông Du ngay từ khi cụ Phan Bội Châu muốn đưa cậu sang Nhật Bản hồi tháng 7 năm 1906.

Vừa đoạn tang mẹ vợ, tháng 5 năm 1906 triều đình Huế lại đưa giấy về mời ông đi làm quan. Hết lý do từ chối, ông phải giã từ quê hương, lên đường nhận chức. Thời gian này thực dân Pháp đã đi sâu khai thác thuộc địa. Để thuận tiện chuyên chở những của cải thu mua, vơ vét, tước đoạt được ở Lào, ở Nghệ Tĩnh, chúng đã khuẩn trương làm đuờng Vinh – cửa rào, nối liền đường sắt Hà Nội – Vinh. Việc bị cưỡng bức phải đi phu làm đường Vinh – cửa rào, trấn ninh là một tai họa khủng khiếp đối với nhân dân Nghệ Tĩnh.

Với nỗi niềm thương dân vô hạn, trước khi ra đi ông Nguyễn Sinh Sắc chỉ để lại một ít ruộng cho con gái là Nguyễn Thị Thanh ở nhà cày bừa mà sinh sống. Còn nữa ông đem bán ấy tiền giúp cho những người dân trong làng có người ruột thịt đang phải đi phu. Hành lý của ông Nguyễn Sinh Sắc khi đi làm quan cũng nhẹ nhàng đơn giản như khi đi dạy học.

Khi chuẩn bị lên đường, có người bà con đến ngỏ ý xin đi theo để vừa chăm sóc ông, vừa để nương nhờ. Ông đã thành thật chỉ bảo: “anh ở nhà mà cày bừa làm ăn, tôi đi chưa chắc đã làm quan, nếu có làm quan chưa chắc đã làm quan lâu”.

Khi ông Sắc cùng hai con đi Huế rồi, nhân dân trong làng Kim Liên, làng Hoàng Trù và cả xã chung chự nói với nhau: “người ta đi làm quan để vinh thân, còn ông phó bảng đi làm quan là để che thân”.

Ơ kinh đô Huế hồi đó có lưu truyền một bài ca thể hiện sự kén chọn trong đám quan lại khi được bổ dụng:

“Nhất là bộ lại bộ binh

Nhì thì bộ hộ, bộ hình cũng xong

Thứ ba thì đến bộ công

Nhược bằng bộ lễ lạy ông tôi về”.

Triều đình Huế bố trí cho ông Sắc làm thừa biện ở bộ lễ, là một chức quan nhỏ.

Bộ lễ trong triều đình Huế những năm đầu thế kỷ 20 có năm chức năng: lễ nghi, học hành, thiên văn, bói toán và khen thưởng. Ông được Lê Trinh thựơng thư bộ lễ lúc đó bố trí trong nhóm quan lại phụ trách việc học hành. Mỗi tháng hai kỳ ông phải đến giảng đường Di Luân trường Quốc Tử Giám để theo dõi các cuộc bình văn, bình thơ.

Bằng thực tế cuộc sống trong đám quan trường đương nhiệm, bằng chính thực tế của bản thân mình đang phải chịu đựng, ông chua xót nói với các giám sinh rằng: “quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ trong đám người nô lệ, lại càng nô lệ hơn).

Đó là thực chất cuộc sống quan trường mà những người như ông Sắc phải chịu đựng. Ông Sắc đã thẳng thắng nói ra. Đây là kết quả của một quá trình nhận thức suy ngẫm, tổng kết. Tư tưởng tiến bộ của ông đã phát triển từ thấp lên cao. Tất yếu sẽ đến chỗ đối kháng với chế độ phong kiến và thực dân đương thời. Chán ghét sự giả dối, đồi trụy của đám quan trường trong triều đình Huế và chán ghét nhân tình thế thái lúc ấy. Từ kinh đô ông đã gửi thư về quê nhà cho cháu Nguyễn Sinh Lý để khuyên răn con cháu giữ lấy nhân cách:

“…uy thế bất túc thị

xảo hiểm đồ tựa hại!

Giới chi, giới chi!”

Dịch:
Uy thế mạnh không đủ để dựa

Xảo hiểm là tự hại mình!

Răn đấy! Răn đấy!)

Tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của cha đã để lại những ấn tượng tốt đẹp đậm nét trong con người cậu thiếu niên Nguyễn Sinh Cung.

Y nguyện muốn tiếp xúc với nền văn minh Pháp để tìm hiểu bản chất của nó ngày càng thôi thúc cậu. Tháng 5 năm 1906, cậu được cha đưa vào kinh đô Huế.

Trong khi đa số các nhà nho không muốn cho con cái vào học trường Pháp – Việt, vì vào đây phải học chữ Pháp, bỏ mất chữ nho là chữ ”thánh hiền”. Trong khi các sĩ phu yêu nước có người cực đoan cho rằng tiếng Pháp là ngôn ngữ của kẻ thù nên không muốn cho con cái theo học chữ Tây, chữ Quốc Ngữ. Ông Nguyễn Sinh Sắc lại cho con vào học trường tiểu học Pháp – Việt Đông Ba và trường quốc học Huế.

Đây là điều kiện tốt nhất để Nguyễn Sinh Cung không những chứng kiến thực trạng xã hội ở trung tâm đầu não của chế độ phong kiến triều đình nhà Nguyễn mà trực tiếp tiếp xúc với nền giáo dục Pháp nói riêng và nền văn minh Pháp nói chung.

Điều quan trọng là cậu đã thấy được là kẻ miệng nói tự do, bình đẳng, bác ái lại chính là kẻ đè nén, bóc lột, ức hiếp dân ta đủ điều.

Thực tế này sớm nhân lên trong lòng Nguyễn Sinh Cung chí căm thù giặc sâu sắc. Thời kỳ học tập ở kinh đô Huế, Nguyễn Sinh Cung ở chung với ông Nguyễn Sinh Sắc. Cho nên mỗi lời nói, mỗi việc làm hàng ngày của người cha thân yêu có tác động trực tiếp tới suy nghĩ và hành động của cậu.

Là người rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, ông Sắc vẫn thừa nhận quan điểm “Phụ huynh bất năng cấm ước tử đệ” (cha mẹ không thể cấm đoán những ước mong của con cái). Ông đã từng bị thực dân Pháp khiển trách vì “hạnh kiểm của hai con trai ở trường quốc học đã nói trước mặt thầy giáo cũ những lời bài pháp trong dịp dân chúng biểu tình chống thuế 1908).

Tuy thế, ông vẫn dạy bảo con cái theo suy nghĩ và cách nhìn của mình.

Tư tưởng tiến bộ và nhân cách cao thượng hàng ngày của cha cùng những biến đổi lớn lao của xã hội Việt Nam trong những đầu thế kỷ 20 đã làm cho tư tưởng yêu nước và lòng căm thù giặc của Nguyễn Sinh Cung phát triển cao độ, thúc giục cậu đi đến những hoạt động cứu nước sôi nổi. Cậu đã tham gia phong trào chống thuế ở Huế. Chí hướng muốn đi ra nước ngoài để tìm đường cứu nước bắt đầu hình thành.

Cậu rời trường quốc học Huế, đi vào các tỉnh Nam để tìm cách đi ra nước ngoài.

Một ngày đầu tháng tư năm Kỷ Dậu (1909), ông Nguyễn Sinh Sắc tạm biệt kinh đô Huế lên đường vào tỉnh Bình Định làm giám khảo thi hương khoa kỷ dậu.

Không muốn để ông Sắc sống ở Huế, nơi có cơ quan đầu não của triều đình phong kiến nhà Nguyễn và bọn thực dân Pháp ở xứ Trung Kỳ, mặc dầu công việc tổ chức thi Hương ở Bình Định chưa xong, nhưng ngày 11 tháng tư năm kỷ dậu (29-5-1909) bộ lại đã có văn bản trình lên hội đồng nhà vua va khâm sứ trung kỳ bổ nhiệm ông Sắc chức tri phủ lĩnh nhiệm tri huyện Bình Khê. Hội đồng nhà vua và khâm sứ trung kỳ duyệt y.

Huyện Bình khê là một huyện nhỏ miền núi, nghèo nhất tỉnh Bình Định, nằm dưới chân đèo An Khê, được thành lập năm 1888, huyện lỵ đóng ở đồng pho. Ở đây, từ lâu có một số người Pháp cấu kết với các giáo sĩ ở tòa giám mục Gò Thị (Phước Sơn, Tuy Phước) đến đây chiếm rừng, cướp đất, gây nên sự chống đối quyết liệt của nhân dân. Trong phong trào đấu tranh chống thuế vừa qua, Bình Khê là nơi có phong trào đấu tranh của nông dân mạnh nhất tỉnh Bình Định. Ở đây cũng là địa bàn hoạt động của nhiều toán cướp.

Tình hình đó đã làm cho một số tri huyện tiền nhiệm mất chức, nhất là khi có sự can thiệp của hai tên sĩ quan Pháp là Coutelle (cu ten) và Stanger (stăng gơ) chỉ huy đồn đồng phó. Tháng 5 năm 1909 trong lúc ông Nguyễn Sinh Sắc đang chấm thi ở Quy Nhơn, hai tên này lợi dụng sự tranh chấp dất đai giữa một số nông dân với lý trưởng tuần đã làm cho tri huyện Phạm Lê Doãn bị xử phạt 40 roi, truất 6 tháng lương và ghi vào lý lịch, chuyển đi nơi khác.

Ngày 1 tháng 7 năm 1909, ông Sắc đến Bình Khê nhận chức tri huyện. Đến đây, ông Sắc ít khi có mặt ở huyện đường, mà thường đi thăm viếng dân chúng xung quanh huyện lỵ đồng phó. Khi đi, ông không cho lính lệ theo hầu. Có lần ông bỏ huyện đường đi chơi luôn mấy ngày, bị tên công sứ Quy Nhơn quở trách. Các tù chính trị, nhất là những người bị bắt trong phong trào chống thuế năm 1908, ông tìm cách thả ra. Phu đài tạp dịch để trễ nải, những vụ tranh chấp đất đai, ruộng nương ít khi xét xử mà khuyên họ tìm cách tự hòa thuận giải quyết với nhau, hòa hợp làm ăn mà sinh sống. Ông thường nói: ”nước mất không lo, lo tranh nhau cái bờ”.

Ông Sắc cực kỳ ghét bọn cường hào ác bá ở địa phương. Chúng dựa vào thế lực của người Pháp và bọn cha cố đạo Gia-tô để bức bách dân chúng. Ông không xét xử các vụ kiện cáo, tranh chấp của bọn này và đã bị bọn chúng tìm cách hãm hại.

Theo hồ sơ của mật thám Trung Ương thuộc phủ Toàn quyền Đông Dương, tờ số A37801, toà Khâm sứ Trung Kỳ, thì ngày 17 tháng 1 năm 1910 ông bị triều đình Huế bắt giam vì tội “lạm quyền dẫn tới cái chết của Tạ Đức Quang”.

Tạ Đức Quang là một tên địa chủ cường hào, người thân của hai sĩ quan Pháp chỉ huy đồn Đồng Phó, làm đơn tố cáo dân chúng lên quan huyện Bình Khê. Ông Sắc thụ lý đơn, nhưng không xét xử ngay, mà để lần lữa ngày tháng trôi qua. Y làm đơn kiện thẳng lên tỉnh. Ông Sắc nổi giận, bắt y lên huyện đường đánh roi, rồi tha về. Hai tháng sau y ốm rồi mới chết. Vợ y là Tân làm đơn kiện lên triều đình Huế.

Ngày 19 tháng 5 năm 1910, Hội Đòng Nhiếp chính làm xong bản án ông mang số 140, ngày 27 tháng 8 năm 1910 bản án số 140 được triều đình Huế duyệt y. Ông bị kết án đánh 100 trượng, sau đổi thành giáng 4 cấp và bị triệt hồi.

Gần một tháng sau, ngày 23 tháng 9 năm 1910 bộ Hình có tờ trình lên hội đồng nhà vua và khâm sứ Trung Kỳ rằng:

“… Tuy xét ra không có tư tình thù oán gì khác, nhưng làm như vậy thật là trái phép. Viên tri huyện này là Nguyễn Sinh Huy (tức Sắc), vốn nên chiếu luật (có trình bày rõ) phải phạt giáng 4 cấp rồi chuyển đi xa. Nhưng lại xét Tạ Đức Quang bị đánh roi qua hơn hai tháng sau bị ốm chết chứ không phải bị đánh chết tức thì, tình có thể tha thứ. Xin đội gia ân đổi làm giáng 4 cấp mà lưu. Truy thu 10 lạng bạc cấp cho gia nhân người chết lo việc chôn cất.

… Lại xét viên tri huyện này mới ra làm quan, chưa tường dân chính, xin cho bộ lại tôi cải bổ kinh chức”. Nhưng ông Sắc không màng đến việc làm quan nữa, được trở về làm dân vốn là ý nguyện của ông. Ra khỏi nhà tù, ông cảm thấy thong dong, không hề vướng bận điều gì. Ông không trở về quê hương Kim Liên, mà đi thẳng vào Nam.

Trước đó một thời gian, trên đường dọc theo bờ biển, đi vào các tỉnh phía Nam, khi đến Quy Nhơn, Nguyễn Sinh Cung có lên Bình Khê thăm Cha. Thấy con trai đến Bình Khê, ông Nguyễn Sinh Sắc hỏi con:

– Con đến đây làm gì?

– Con đến đây tìm cha.

Nghe vậy, ông Sắc trìu mến nói với con:

– Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì?

Cuộc gặp gỡ đó càng thôi thúc Nguyễn Sinh Cung ra nước ngoài tìm đường cứu nước.

Sau khi rời khỏi nhà tạm giam tại Huế, trên đường đi vào Nam ông Nguyễn Sinh Sắc có dừng lại ở Phan Thiết tìm Nguyễn Tất Thành. Nhưng Nguyễn Tất Thành không còn ở đây nữa. Theo sự chỉ dẫn của gia đình cụ Nghè Trương Gia Mô, ông đi thẳng vào Sài Gòn đến nhà ông Lê Văn Đạt ở xóm Rạch Bần (nay là số 185/1 đường Cô Bắc, Tp.Hồ Chí Minh). Tại đây ông đã gặp cụ Nghè Trương Gia Mô và gặp con trai Nguyễn Tất Thành.

Sáng sớm ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, xuống tàu Đô Đốc Latouche Tréville, mở đầu cho quá trình đi sang phương Tây hoạt động tìm đường cứu nước.

Ông Sắc vào Sài Gòn đến ở chùa Linh Sơn, hàng ngày đi xem mạch kê đơn thuốc chữa bệnh cho dân ở hiệu thuốc Trường Thọ Viên và Tam Thiên Đường nằm trên đường Espagne (nay là đường Lê Thánh Tông).

Ông Nguyễn Sinh Sắc là niềm tin yêu thành kính trong suốt cả quá trình Nguyễn Tất Thành bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước. Nỗi nhớ cha không bao giờ nguôi. Rời tổ quốc chưa đầy 5 tháng, ngày 31 tháng 10 năm 1911, từ trên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành viết lá thư đầu tiên nhờ người bạn đi tàu thủy mang về Sài Gòn, qua đường Bưu Điện chuyển đến tòa Khâm Sứ Trung Kỳ để nhờ giao trực tiếp cho ông Nguyễn Sinh Sắc.

Nội dung lá thư Nguyễn Tất Thành gửi Khâm sứ Trung Kỳ như sau:

“Ngày 31 tháng 10 năm 1911.

Kính gửi Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.

Tôi ký tên dưới đây, Nguyễn Tất Thành, tức Sinh Cung, con ông Nguyễn Sinh Huy (tức Sắc),

nguyên Tri huyện Bình Khê.

Cha tôi và tôi xa nhau đã 2 năm. Tôi làm việc trên tàu Đô Đốc Latouche Tréville chạy đường Hải Phòng – Dunkerque. Tôi kiếm được số tiền nhỏ là 15 đồng. Tôi muốn gửi cho cha tôi, nhưng tôi không thể gửi ngân phiếu trực tiếp.

Vì vậy, tôi mạnh dạn xin ông vui lòng chuyển ngân phiếu này đến tòa Khâm sứ và trao lại cho cha tôi, để sống trong lúc túng quẫn.

Tôi mong rằng lòng hảo tâm của ông sẽ chấp nhận lá đơn của một người con muốn làm tròn chữ hiếu đối với cha tôi. Xin gửi tới ông lời chào thành khẩn sâu sắc.

Tất Thành

Trên tàu Đô Đốc Latouche Tréville”

Lá thư này được Soguy, chánh mật thám Trung Kỳ sao y bản chính và có chú thích. Số tiền ngân phiếu ghi trong thư trên 15 đồng đã được Văn phòng tòa Khâm sứ trao lại cho ông Nguyễn Sinh Sắc, đã ký nhận ngày 9-11-1911.

Năm 1912, ông Sắc trở ra Phan Thiết giải quyết một số việc cần thiết. Giữa đường ông bị bắt, nhưng xét ra không có chứng cớ cụ thể để buộc tội, nên bọn Pháp phải thả ông ra. Trở lại Sài Gòn, ông trú ngụ trong các chùa chiền và làm thuốc cứu dân ngóng đợi tin con.

Thời gian này ở tây bán cầu, tại New York, thủ đô nước Mỹ, nơi có tượng nữ thần Tự Do nổi tiếng, Nguyễn Tất Thành vừa lao động để sống, vừa chăm chỉ khảo sát, nghiên cứu thực tế xã hội Mỹ để hy vọng tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Hình ảnh về người cha thân yêu luôn luôn canh cánh trong lòng. Ngày 15 tháng 12 năm 1912 anh lấy tên là Paul Tất Thành viết thư gửi về nước hy vọng sẽ liên lạc được với cha.

“New York, ngày 15-12-1912.

Kính gửi ông Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.

Tôi kính cẩn xin ông giúp đỡ cho một việc như sau:

Tôi rời xứ sở tháng 7 năm ngoái (1911) để lại cha già không nơi nương tựa. Tôi thường viết thư cho cha tôi, nhưng chỉ nhận được 2 lá thư trả lời. Tôi đã gửi cho cha tôi 3 ngân phiếu nhưng cha tôi trả lời là chỉ nhận được một lần, vì lần ấy ngân phiếu được giao quý ông và quý ông đã giao tận tay cho cha tôi. Bây giờ tôi không biết cha tôi như thế nào và ở đâu.

Tôi muốn gửi cho cha tôi một số tiền hàng tháng, nhưng không biết làm thế nào. Bây giờ tôi hoàn toàn không biết được địa chỉ của cha tôi, còn tôi theo nghề thủy thủ, luôn thay đổi chịa chỉ, chỉ biết nhờ quý ông giúp đỡ.

Ôi, tình hình của tôi nóng bỏng, sống xa cha mẹ, hiếm khi nhận được tin tức, muốn giúp đỡ mà không làm sao được.

Ông Khâm sứ kính mến. Tôi xin ông giúp đỡ tôi, cho tôi biết tình hình của cha tôi và cho phép tôi gửi đến tòa Khâm sứ những gì mà tôi muốn gửi cho cha tôi.

Hy vọng lòng tốt của ông không từ chối đơn của một đứa con muốn làm tròn nghĩa vụ đối với cha mẹ, chỉ có chỗ dựa lòng ông.

Paul Tất Thành

(con Phó bảng. Nguyễn Sinh Sắc)

Hòm thư lưu:số 1 đường Đốc đốc.

Coubet Le Havre, Pháp

Giữa năm 1913, một sự kiện bất ngờ xảy ra trong đời sống của ông Sắc. Lê Bá Cử nhận ông về làm cai phu đồn điền cao su Lộc Ninh, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Lúc này các nhà tư sản Pháp đã bỏ tiền ra khai thác vùng đất trù phú ở miền đông Nam Bộ, tạo ra những đồn điền cao su rộng lớn như những cánh rừng.

Đồng bào nghèo đói được chiêu mộ về đây làm phu. Họ được bố trí ở thành từng khu trong những dãy nhà lụp xụp, tối tăm. Hàng ngày, họ phải dậy từ bốn giờ sáng, lo cơm nước xong để đến nơi làm việc trước khi mặt trời lên. Đến chiều tối mới được về. Nếu chậm trễ thì bị đòn roi và phạt tiền. Lương không đủ sống, bệnh sốt rét hoành hành, thuốc men thiếu thốn.

Bọn chủ lại quỷ quyệt cho họ tạm ứng lương trước, mà chúng biết là người phu không bao giờ trả nổi. Bọn chủ đã cột sinh mạng của người phu đồn điền vào gốc cây cao su. Hàng ngày, ông Sắc cùng với những người cai phu khác nhận lệnh của chủ đồn điền cắt đặt cho phu làm, rồi đôn đốc, kiểm tra. Ông Sắc đã được tận mắt chứng kiến cảnh cai phu hoạnh hoẹ, đánh đập phu để ăn tiền đút lót. Còn bọn chủ đồn điền thu không biết bao nhiêu là lợi nhuận, sống giàu sang trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của người phu. Thực tế phũ phàng đó làm cho ông Sắc càng đau lòng.

Sống ở đồn điền cao su Lộc Ninh chưa đầy 6 tháng, không thể tiếp tục công việc được nữa, ông về Sài Gòn để nghe ngóng tin tức về Nguyễn Tất Thành. Hàng ngày, ông lại đi xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho dân. Đến bữa ăn thì ăn cơm vỉa hè quanh chợ Bến Thành với bà con lao động. Tối đến về ngủ ở chùa Sắc Tứ Từ An hoặc chùa Linh Sơn và đọc sách nghiên cứu thêm về đạo Phật.

Một hôm, ông tìm đến nhà ông Bùi Văn Tiêu, thường gọi là Ba Tiêu. Nhà ở đường Lagarandiére (nay là đường Lý Tự Trong). Ông Tiêu quê ở Bắc Kỳ, tham gia chống Pháp, bị bắt và bị an trí ở Sài Gòn. Ông mở tiệm giặt là. Nhà ông là nơi các thủy thủ làm ở các tàu thủy ngoại quốc đến thường xuyên để chuyển các tin tức, thư từ nước ngoài gửi về.

Thấy ông Sắc đến, ông Tiêu dè dặt báo tin: Mới đây thôi, cánh thủy thủ ở Châu Âu về có đồn đại về một người phụ bếp người Việt Nam bị bệnh chết lúc tàu đang chạy dọc bờ biển châu Phi, không biết quê quán người ấy ở đâu. Nhưng đây chỉ là đồn thôi. Nghe vậy, ông Sắc đứng lặng hồi lâu rồi cáo từ ra về. Dẫu biết là tin đồn, nhưng ông Sắc vẫn cảm thấy niềm hy vọng to lớn nhất của mình đã tiêu tan. Ông bần thần như người mất trí, cứ đi lang thang giữa đường phố Sài Gòn.

Đầu năm 1914, ông Sắc theo Lương Ngọc Quyến, con trai cụ Cử nhân Lương Văn Can bí mật đi sang Phnôm Pênh, thủ đô Campuchia để đàm đạo thế sự, tìm kế sách cứu nước với các nhà nho yêu nước, trong đó có cụ Lương Văn Can đang bị thực dân Pháp đày đi an trí ở đây. Ở nhà cụ Lương Văn Can được vài hôm, để tránh sự theo dõi của mật thám, ông Sắc chuyển đến ở chùa Sùng Phước.

Hơn một năm sau, khi ông Sắc đang ẩn náu trong các chùa chiền ở Phnôm Pênh ngày 3 tháng 3 năm 1915 tại khách sạn The Carten Pall Mall thủ đô Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành lại viết một bức thư ký tên là Paul Thành, thông qua lãnh sự quán Anh ở Sài Gòn, nhờ Toàn quyền Đông Dương chuyển đến ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.

Theo bức thư của Đổng Lý văn phòng phủ Toàn quyền Đông Dương, Cha F.Fran gửi cho Nguyễn Tất Thành ngày 22 tháng 9 năm 1915 viết, mặc dầu chính quyền đã cố gắng tìm kiếm nhưng vẫn không biết được địa chỉ của ông Sắc nên bức thư nói trên không chuyển tới ông Sắc được.

Hơn bốn năm trời (1911 – 1915) rời tổ quốc đi sang tận châu Âu, châu Mỹ, châu Phi… Nguyễn Tất Thành không bao giờ dám lãng quên người cha kính yêu nên đã gửi nhiều lá thư và tiền về cho ông Nguyễn Sinh Sắc, nhưng ông Sắc chỉ nhận được có một lần.
Cuối năm 1915, ông Sắc rời Phnôm Pênh về Sài Gòn. Trước tiên ông đến hiệu giặt là của ông Ba Tiêu để tìm nghe tin tức mới về Nguyễn Tất Thành, nhưng không có.

Ông lại đi khắp vùng Bà Điểm, Hóc Môn và vùng Bảy núi ở An Giang với nghề làm thuốc. Với một tấm lòng thương dân, yêu nước, ông đã đến với mọi nhà. Từ những gia đình nghèo làm ruộng đến các điền chủ, quan lại yêu nước chống Pháp. Đến lúc này, dù tuổi đã cao, nhưng ông Sắc vẫn còn ham học. Ông đã đọc thông, viết thạo chữ quốc ngữ, bằng cách tự học. Ông bắt đầu học chữ Pháp. Ông tìm được quyển từ vựng Việt – Pháp (Vocabulaire Annamite – Francais) của F.Genibrel gói vào trong túi mang đi theo, gặp ai biết chữ Pháp thì hỏi.

Đầu năm 1917, tình cờ ông Sắc gặp Lê Quang Hiển tại nhà Diệp Văn Cương ở quận Gò Vấp, Sài Gòn. Lê Quang Hiển (1872 – 1950) là điền chủ yêu nước, quê ở Cao Lãnh đã từng ủng hộ nhiều tiền của cho phong trào Đông Du, được cấp bằng Đề Đốc. Lê Quang Hiển biết tiếng tăm Nguyễn Sinh Sắc từ ngày ông Sắc làm Thừa biện bộ Lễ ở Huế. Lê Quang Hiển có nhã ý mời ông Sắc đến thăm viếng quê hương Cao Lãnh, một niềm quê có truyền thống đấu tranh kiên cường, anh dũng, có nhiều nhà yêu nước nổi tiếng.

Về Cao Lãnh, ông Sắc đã đến thăm viếng miếu Trời Sanh, chùa Linh Sơn, chùa Kim Quang (Lâm Vồ)… giao lưu, bàn bạc thời cuộc với các nhà yêu nước trong vùng như Lê Chánh Đáng, Lưu Quang Bật, Nguyễn Quang Diêu…

Đến xã Hòa An (Cao Lãnh), ông Sắc tìm gặp Trần Bá Lê (tức Cả Nhì Ngưu) là người có nhiều tiền bạc ủng hộ phong trào Đông Du. Ông Sắc được Trần Bá Lê mời về ở hẳn trong nhà để dạy học và chăm sóc sức khỏe cho bà con trong vùng. Nhà Trần Bá Lê thường xuyên có người lui tới, không phù hợp với sinh hoạt của mình nên ông Sắc muốn tìm nơi ở khác. Trần Bá Lê đã dựng một ngôi nhà nhỏ trên bờ rạch Cái Tôm để ông Sắc ở. Cả hai ông đều tin tưởng, kỳ vọng vào lớp trẻ, tự cho mình có bổn phận phải dìu dắt, bồi dưỡng cho họ tiếp nối phấn đấu trên con đường cứu dân, cứu nước.

Nghe tin ông Nguyễn Sinh Sắc đang trú ngụ ở Cao Lãnh, Cử nhân Võ Hoành, quê ở Thanh Trì, Hà Đông, một yếu nhân của Đông Kinh Nghĩa Thục bị thực dân Pháp đày an trí ở Sa Đéc, cũng tìm đến gặp gỡ, bàn bạc công việc cứu nước.

Cuối năm 1919, ông Sắc về lại Sài Gòn. Trước tiên ông Sắc ghé vào tiệm giặt là của Ba Tiêu. Thấy ông Sắc đến bất ngờ, Ba Tiêu mở tủ, lấy từ dưới chồng quần áo ra một tờ báo Nhân Đạo. Ở trang nhất có đăng “ Bản yêu sách của nhân dân An Nam”. Cuối bản yêu sách có đề: “Thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước – Nguyễn Ái Quốc”.

Ba Tiêu phấn khởi chỉ vào chữ “ Nguyễn Ái Quốc” rồi nói: Bác có biết người này là ai không?

Ông Sắc sửng sốt, chưa kịp nói gì, Ba Tiêu giọng tin tưởng nói tiếp: Đó là người mà mấy năm trước có tin đồn là đã chết trên tàu khi đang chạy dọc bờ biển châu Phi. Bây giờ đang hoạt động sôi nổi và có uy tín lớn ở thủ đô Paris. Ngồi lặng hồi lâu, ông Sắc đứng dậy vỗ vai Ba Tiêu nói:

– Cảm ơn anh nhiều lắm. Anh cho tôi xem tờ báo này, nhưng chính anh đã cho tôi cái phao cứu sống tôi như người sắp chết đuối đã mấy năm nay.

Tạm biệt Ba Tiêu, ông Sắc ung dung cất bước đi dọc bờ sông Sài Gòn. Dòng sông đã chở bao nhiêu tin yêu và kỳ vọng của ông. Ông Sắc thấy sức lực như được hồi sinh. Ông lao vào hoạt động theo cách của mình. Ông liên lạc với các nhà yêu nước trước đây để cổ vũ, động viên họ làm sao duy trì được phong trào đấu tranh liên tục để chờ cơ hội thuận lợi khi nào phe “chống đối” nhà nước Pháp đứng lên đảo chính, thì bên này nhân dân Việt Nam nổi dậy lật độ ách thống trị của bọn thực dân Pháp.

Nguyễn An Ninh là con của nhà yêu nước Nguyễn An Khương, quê ở Hóc Môn, Sài Gòn, du học Pháp. Thời kỳ học tập ở Pháp, Nguyễn An Ninh đã liên lạc với Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc. Sau đỗ cử nhân luật, Nguyễn An Ninh đi tìm hiểu một số nước châu Âu, về nước năm 1922.

Sau khi về nước Nguyễn An Ninh ra mắt công chúng ở Sài Gòn bằng nhiều buổi diễn thuyết chống thực dân Pháp tại hội Khuyến học Nam Kỳ, được quần chúng hết sức hoan nghênh. Từ khi Nguyễn An Ninh về nước, ông Sắc đã nhiều lần tiếp xúc bí mật. Nguyễn An Ninh rất quan tâm tới những ý tưởng và hoạt động của ông Sắc. Thực dân Pháp quan tâm đặc biệt và bố trí cho mật thám theo dõi mối quan hệ giữa hai người.

Năm 1923, ông Sắc ra Phan Thiết sau hơn mười năm xa cách. Thời gian ở Phan Thiết, ông Sắc bị ốm phải vào điều trị tại bệnh viện, nằm số giường 57 N, cũng bị mật thám phát hiện. Ngày 9-11-1923, chúng đánh bức điện số 22S báo cáo với Khâm sứ Trung Kỳ biết trong thời gian điều trị tại bệnh viện, ông Sắc vẫn thường xuyên liên lạc với các cựu chính trị phạm trong vụ nổ bom Hà Nội và các sĩ phu yêu nước quê ở Nghệ Tĩnh bị thực dân Pháp đày vào đây.

Đặc biệt chúng đã nắm được một kế hoạch bí mật của ông Sắc là nếu được ra viện, ngày 9 tháng tới (tức là ngày 9-12-1923), ông sẽ có mặt tại Thủ Dầu Một để chuẩn bị vượt biên. Chúng xin Khâm sứ Trung Kỳ cho chỉ thị cụ thể nên bắt ngay vào lúc vừa xuất phát hay chọn một thời điểm thuận lợi để tóm gọn toàn bộ.

Một ngày sau, ngày 10-11-1923 Khâm sứ Trung Kỳ đã đánh bức điện số 861 SG trả lời xác nhận:

“Những tin tức về Nguyễn Sinh Huy tức Sắc (hồ sơ A3760) đều đúng khớp” và chỉ thị: “Cần theo dõi chặt chẽ”.

Ngày 1 tháng 12 năm 1923 Chánh mật thám Arnoux gửi cho Sở mật thám Đông Dương báo cáo số 867SG.

Sài Gòn ngày 1-12-1923.

Nguyễn Sinh Huy (tức Sắc) đã đến Sài Gòn chiều tối ngày 29 tháng 11 năm 1923. Ông đến nhà người thợ giặt ủi quần áo quê ở Bắc Kỳ tên là Bùi Văn Tiêu (tức Ba Tiêu), đường Lagran Diêre. Nhà Ba Tiêu không có chỗ ngủ nên ông Huy đến ngủ tại nhà người em trai của Ba Tiêu tên là cậu Tám cùng phố. Sáng 30-11, ông Huy ra đi không biết đi đâu và bao giờ trở về. Chờ đến 16 giờ ông ta cũng chưa trở lại. Theo Ba Tiêu ông ta tính ở lại Sài Gòn ít lâu.

Chánh mật thám Arnoux

Cuối năm 1925, Phan Châu Trinh từ Pháp trở về Tổ quốc, được đông đảo nhân dân Sài Gòn, nhất là tầng lớp nhân dân lao động và thanh niên nồng nhiệt đón tiếp. Ông Nguyễn Sinh Sắc là người đến gặp Phan Châu Trinh trước tiên vì nóng lòng muốn biết cụ thể thực tình về Nguyễn Ái Quốc.

Tại số nhà 34 đường pellerin, nơi Huỳnh Đình Điển cho Phan Châu Trinh trú ngụ, hai ông Phó bảng đồng khoa mang nặng nỗi ưu tư về tương lai của non sông đất nước cùng dốc bầu tâm sự, sau hai mươi năm xa cách người ở phương Tây, kẻ ở phương Đông. Nghe Phan Châu Trinh kể một cách tường tận quá trình hoạt động đấu tranh anh dũng và trưởng thành nhanh chóng vững vàng, sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp với một lòng ngưỡng mộ, tin tưởng, khiến Nguyễn Sinh Sắc cảm động và rất phấn khởi.

Ngày 24 tháng 3 năm 1926, Phan Châu Trinh tạ thế ở Sài Gòn. Nhân dân cả nước ta, nhất là tầng lớp thanh niên hết sức xúc động, thương tiếc. Ông Nguyễn Sinh Sắc đã tỏ lòng thương tiếc và ca ngợi công lao hoạt động cứu nước của Phan Châu Trinh bằng đôi câu đối viết trên một tấm vóc đỏ, đến viếng, nội dung như sau:

“Nam quốc dân quyền tiên tổ chức,

Tây phương tịnh độ hậu siêu sinh”.

Nghệ An Phó bảng Nguyễn Sinh Huy bái phúng.

Tạm dịch nghĩa:

“Trước tổ chức dân quyền ở nước Nam

Sau siêu linh tịnh độ ở Phương Tây”.

Thường ngày, Nguyễn Sinh Sắc gần gũi anh em thanh niên, nhất là những thanh niên có nhiệt tâm yêu nước, đang hăm hở tìm đường cứu nước. Ông là niềm tin yêu thành kính, là nguồn động viên lớn đối với họ.

Đồng chí Lê Mạnh Trinh, một cán bộ cách mạng lão thành kể: “Tôi được gặp cụ Bảng Sắc, khi cụ ấy đã ngoài 60 tuổi, người xương xương, nước da ngăm ngăm đen, hai gò má cao, với bộ râu không dày, không thưa. Cụ luôn luôn mặc bộ quần áo bà ba đen. Phong cách con người phong sương khí cốt. Cụ thường gần gũi với anh em thanh niên. Thường khi cụ đến nhà chúng tôi ở, chúng tôi thường gọi cụ bằng “Bác”. Một hôm tôi đến hiệu thuốc Phúc Sinh Đường gặp cụ, cụ hỏi:

– Mày đến đây làm gì?

– Thưa, lâu ngày cháu đến thăm Bác.

– Mày đến đây thăm tao, tao cũng thế này. Chẳng đến thăm, tao cũng thế này. Chúng mày đang tuổi thanh niên phải học hành và làm việc. Đến thăm tao có ích gì?

Cụ ít nói, nhưng thanh niên chúng tôi cảm thấy cụ có một tình yêu sâu sắc đối với mình”.

Vào khoảng tháng 9 năm 1926, trước khi rời Sài Gòn, bí mật sang Quảng Châu dự lớp Thanh niên cách mạng đồng chí hội, đồng chí Lê Mạnh Trinh đến chào tạm biệt ông Sắc. Thông qua Lê Mạnh Trinh, ông Sắc căn dặn người con trai của mình là Nguyễn Ái Quốc: “Cháu ra đi cố gắng. Bác nghe nói Quốc, đang ở Quảng Châu, Cháu gặp thì nói Bác vẫn khỏe, đừng lo, cứ cố gắng làm việc… trung với nước tức là hiếu với bác”.

Nghe lời ông Nguyễn Sinh Sắc dặn người con trai của mình đang ở xa tổ quốc, làm chúng ta nhớ lại lời dặn của Nguyễn Phi Khanh đối với Nguyễn Trãi cách đây gần sáu trăm năm trước khi qua ải Nam Quan để sang Yên Kinh, Trung Quốc.

Tháng 8 năm 1927, khi đang ở chùa Linh Sơn, Sài Gòn, ông Sắc bị ốm nặng. Ông có báo tin cho con gái là Nguyễn Thị Thanh, hiện đang bị thực dân an trí ở Huế vì tội hoạt động chống thực dân Pháp. Cô Thanh rời Huế, vào Sài Gòn thăm cha. Cô được Phan Trọng Bình đưa đến chùa Linh Sơn. Thấy cha quá tiều tụy, cô xin rước về Huế để nuôi dưỡng. Ông Sắc nói: “Thân con bị quản thúc, con lo còn chưa xong, làm sao lo cho cha được”. Cô Thanh khóc lóc năn nỉ mãi. Ông Sắc vẫn không lay chuyển. Sau đó cô Thanh phải một mình trở lại Huế.

Một ngày đầu tháng 4 năm 1928, Nguyễn Sinh Sắc đến Cao Lãnh. Vào ở nhà ông Hương Chủ Sành được vài tuần, ông dời đến ở nhà ông Năm Giáo, một nông dân nghèo góa vợ trên bờ rạch Cái Tôm. Từ ngày ông Phó bảng về ở đây, cảnh gia đình ông Năm Giáo trở nên ấm áp, đôi bạn già sống bên nhau rất tâm đắc.

Hàng ngày, buổi sáng ông Nguyễn Sinh Sắc đi bộ ra chợ Cao Lãnh đến hiệu thuốc Hàng An Đường xem mạch, kê đơn, trị bệnh cho đồng bào. Buổi chiều ông thường ở nhà làm thuốc cao đơn hoàn tán hoặc nhờ người bơi xuồng đưa đi thăm bệnh hay đi thăm bạn bè đàm đạo việc cứu nước. Phong cách giản dị, tấm lòng thương dân của ông Sắc đã sớm chinh phục được tình cảm của bà con quanh vùng.

Việc ông Nguyễn Sinh Sắc trở lại Cao Lãnh sinh sống và hoạt động yêu nước, mật thám Pháp có báo cáo mật với Thống đốc Nam Kỳ như sau:

Cảnh sát Đông Dương Nam Kỳ.

Công văn mật số 1416S

Sở mật thám. Sài Gòn, ngày 12-5-1928

Riêng cá nhân và mật

Kính gửi: Ông Thống đốc Nam Kỳ ở Sài Gòn.

Đồng gửi các ông:

– Chánh giám đốc cảnh sát và Tổng mật vụ Hà Nội.

– Công sứ các tỉnh Vĩnh Long, Rạch Giá, Cần Thơ và Bến Tre.

– Ủy viên đặc nhiệm chỉ huy các đội lưu động Vĩnh Long.

Tin do đội trưởng đội lưu động Vĩnh Long cấp.

Tiếp theo công văn mật số 1142 S ngày 13-4-1928.

Nguyễn Sinh Huy, bố đẻ của Nguỵễn Ái Quốc hiện ở nhà tên Năm Giáo, làng Hòa An (Cao Lãnh) từ ngày 16-4-1928. Ông ta sống ẩn náu tại đây, khi có dịp đi làm thầy lang chữa bệnh.

Ở làng Hòa An, có một nhóm chống Pháp, trung thành với Nguyễn Ái Quốc và có mối liên lạc với Đảng Đỏ ở Quảng Châu. Trong những người tham gia nhóm này có những tên Lê Chánh Đáng, Hương Chủ Sành, Hương Trưởng Đê, Phó Hương Quản Đê, Nguyễn Văn Biển (tức Thót) và Trần Kim Ngô tức Sáu Nhỗng.

Tôi yêu cầu ông ủy viên đặc nhiệm chỉ huy các đội lưu động theo dõi chặt chẽ bố đẻ của Nguyễn Ái Quốc cũng như người hay lui tới gặp ông ta.

Chánh mật thám”

Thấy ông hay đi đó đây, có người hỏi: “Thưa ông, nhà ông ở đâu? Quê ông ở đâu? Ông trả lời: “Nước mất nhà đâu còn! Nước mất, quê đâu còn?.

Lần theo dấu chân của ông khắp Nam Bộ, ta thấy những địa phương ông đến thường là nơi có người hoạt động yêu nước tích cực, có phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Ví như ở chùa Giồng Thành, quận Tân Châu (An Giang) có Hòa Thượng chủ trì chùa năm 1930 đã trở thành Đảng viên của chi bộ cộng sản đầu tiên ở đây; ở xã Nhơn Hưng, xã Thái Sơn (Tịnh Biên, An Giang), năm 1930 có liên chi bộ Đảng mạnh nhất vùng, xã Vĩnh Kim (Mỹ Tho – Tiền Giang), năm 1940 là quê hương của Nam Kỳ khởi nghĩa.

Hoạt động yêu nước, nghĩa cử thương dân của ông đã phát huy mạnh mẽ truyền thống đạo lý làm người trong nhân dân. Đã gieo mầm cách mạng cho các địa phương tăng trưởng mau lẹ.

Nhân dân ngày càng yêu thương quý trọng ông. Không phải chỉ vì một thầy thuốc giỏi, học rộng, giàu lòng thương người, mà còn là một nhà yêu nước chân chính.

Mùa nước lũ năm Kỷ Tỵ (1929) vừa hạ, ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lâm bệnh. Nhân dân địa phương hết lòng cứu chữa nhưng bệnh không thuyên giảm. Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 10 âm lịch, ông Sắc nhờ người đỡ dậy, nói chuyện với các ông Năm Giáo, Lê Chánh Đáng, Hai Thiện và Bảy Mân. Ông đưa số tiền của mình trên 150 đồng nhờ bà con mua quan tài khâm liệm. Ông chỉ tay ra sân bảo để quan tài ngoài ấy tế liệm rồi đưa đi chôn.

Sáng ngày 27, ông đưa cho ông Lê Chánh Đáng một tập thơ chữ Hán bảo nhờ ông cử Hoành đưa cho cô Nguyễn Thị Thanh và tặng ông Lê Chánh Đáng một toa thuốc bí truyền. Rồi ông lịm dần, đến trưa thì trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 63 tuổi.

Chiều hôm đó bà con bên chợ Cao Lãnh đã chở đến một quan tài loại gỗ tốt, được sơn son đàng hoàng và đồ khâm liệm. Bà con quanh vùng đều vô cùng thương tiếc, đã đưa hương hoa đến điếu phúng và thay nhau túc trực bên linh cửu ông.

Ông Năm Giáo, bàn với em là ông Sáu Học: “Ông Phó bảng có duyên thân với dòng họ mình nên ông bà xui khiến ông về đây ở với anh. Theo phong tục thì tử đâu táng đó. Ông Phó bảng cũng muốn được chôn cất ở đây. Anh muốn để ông Phó bảng nằm phần đất của chú gần chùa Hòa Long (miếu Trời Sanh).

Ông Sáu Học chấp thuận lời anh. Lễ an táng ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được nhân dân xã Hòa An, thị trấn Cao Lãnh cử hành trọng thể. Các ngày tuần tiết được ông Năm Giáo và bà con làm đúng thủ tục địa phương.

Dưới thời thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm chiếm miền Nam, biết ông Phó bảng là người yêu nước, thương dân và là thân sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, bọn chúng và bè lũ tay sai đã dở đủ trò để phá ngôi mộ ông. Nhưng nhân dân vùng Cao Lãnh đã quyết tâm và khôn khéo bảo vệ được chu toàn.

Sau khi đất nước sạch bóng quân thù. Tổ Quốc thống nhất, để giữ trọn tình nghĩa sâu nặng với ông, người đã có công lớn sinh ra Chủ Tịch Hồ Chí Minh, người gieo mầm cách mạng cho vùng đất Cửu Long, ngôi mộ ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được xây dựng lại trên vị trí cũ khang trang, đẹp đẽ. Ngày 18 tháng 2 năm 1977, đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã long trọng làm lễ khánh thành.

Huyện Lấp Vò: Đi tỉnh lộ 23 đến ngã ba rẻ trái vào tỉnh lộ 944.

Phà An Hòa: Vào Tp. Long Xuyên của tỉnh An Giang theo con đường Lý Thái Tổ – Trần Hưng Đạo – Nguyễn Văn Cưng.

Qua cầu Hoàng Diệu: (nằm trên đường Trần Hưng Đạo)

Qua cầu Trần Hưng Đạo: (hay còn gọi là cầu Quay)

Qua cầu Chắc Cà Đao:

Qua bến đò Trà Ôn: đến điểm tham quan khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Nguồn: Sưu tầm

Saigon, Chợ Lớn và Nam Bộ: Từ tiền sử đến Phù Nam, đế quốc Khmer và vương quốc Champa

0

SAIGON, CHỢ LỚN VÀ NAM BỘ: TỪ TIỀN SỬ ĐẾN PHÙ NAM, ĐẾ QUỐC KHMER VÀ VƯƠNG QUỐC CHAMPA

Địa thế:

Ít người biết là vùng đất Saigon-Gia Định-Đồng Nai-Bà Rịa, Cần Giờ và Mỹ Tho cách đây hơn 300 năm chủ nhân không phải là người Việt, cũng không phải là người Khmer mà là người Mạ và Stieng. Thuộc hệ ngôn ngữ Mon-Khmer, họ đã hiện diện trên vùng đất rừng rậm hoang dại nhiều thú dữ và sông ngòi chằng chịt này từ ngàn năm trước. Cuộc sống của họ một phần bị ảnh hưởng sau đó bởi văn hóa Sa Huỳnh, văn minh Phù Nam, văn hóa Chân Lạp-Khmer và sau cùng là văn hóa Việt–Hoa.

Ngày nay họ không còn và biến mất hoàn toàn và chỉ còn rải rác ở Đồng Nai và Lâm Đồng. Không như những thổ dân ở một vài nơi trên thế giới được may mắn vẫn còn hiện diện trên đất cha ông của họ. Sau những tranh đấu gian nan, người Mạ hiền hòa đã không có tiếng nói gì và dư âm rất nhỏ bé còn để sót lại trong lịch sử.

Bài này có mục đích trình bày tổng quan lịch sử con người và văn hóa ở vùng đất Saigon-Đồng Nai trước khi lưu dân người Việt và Hoa đến định cư. Nếu nói về chiều sâu của thời gian trong lịch sử thì lịch sử lập nghiệp và khẩn hoang của lưu dân Việt-Hoa còn sau vài thế kỷ lịch sử người Âu đến Bắc Mỹ và Nam Mỹ  lập nghiệp và chỉ trước người Âu đến lập nước Australia không lâu trong vòng 1 thế kỷ. Những gì mà chúng ta tìm được về phương diện nhân chủng và khảo cổ học ở vùng đất này cho thấy tại đây đã có một nền văn hóa bản địa (nay gọi là văn hóa Đồng Nai) đặc sắc có liên hệ với văn hóa Sa Huỳnh, Đông Sơn, Phù Nam và Khmer.

Về địa thế thì Saigon-Chợ Lớn là vùng đất tương đối phẳng phía xa sông (trừ Gò Cây Mai và Gò Vấp), có độ dốc là (không gắt) và trũng đi về phía gần sông Saigon, rạch Thị Nghè và rạch Tàu Hủ-Bến Nghé. Vì thế thành Saigon (còn gọi là thành Quy, sau này phá đi và xây nhỏ lại gọi là thành Phụng) được xây trền vùng đất cao nhìn bao quát chung quanh, đổ dốc xuống khu vực Bến Nghé gần sông Saigon, tức vùng quanh khu chợ Cũ ngày nay. Cũng vậy ở khu vực Chợ Lớn, từ kênh Tàu Hủ đi lên hướng Phú Lâm, Phú Thọ độ cao tăng dần.

Xưa kia vùng chung quanh gò Cây Mai và Phú Thọ là những nơi đất giồng cao chung quanh là ao, rạch nên đã trở thành nơi định cư của người Khmer. Mô hình định cư thường thấy của họ khắp đồng bằng Cửu Long. Chỉ khi người Minh Hương từ Cù Lao phố ở Biên Hòa bỏ nơi này để đến khu vực giữa gò Cây Mai và kênh Tàu Hủ định cư, một vị trí thuận tiện có thể đi theo sông rạch đến Mỹ Tho (một nơi mà người Hoa Minh Hương đã có mặt) mà không phải qua cửa ngõ ra biển ở Cần Giờ, thì vùng Saigon-Chợ Lớn mới bắt đầu có nhiều di dân đến định cư và phát triển để trở thành một đô thị sung túc và quan trọng nhất sau này ở miền Nam.

Trước đây vùng này có hệ thống kinh rạch dầy đặc: từ trung tâm Saigon (rạch Chợ Vải, rạch Cầu Sấu, rạch Cầu Kho..), khu tiếp giáp với quận 3 (rạch Cầu Quan), khu cầu Ông Lãnh (rạch Cầu ông Lãnh), Chợ Quán (rạch Bà Đô) cho đến Chợ Lớn (rạch Phố xếp, rạch Chợ Lớn, rạch Bãi Sậy, rạch Lò Gốm). Khởi thủy của Saigon-Chợ Lớn là qua kinh, rạch, sông và đường biển giao lưu với mọi vùng và vì thế đặc trưng văn hóa, kinh tế của thành phố Saigon-Chợ Lớn cũng như con người là sông, nước nối liền đời sống kinh tế sản xuất, thương mại và tư tưởng văn hóa của nhiều giống dân hội tựu nơi đây.

Ngày nay theo đà phát triển giao thông đường bộ và đô thị, hầu hết các kinh rạch đã bị lấp. Đây cũng là một nguyên nhân cơ bản về thủy văn là tại sao hiện nay Saigon-Chợ Lớn, nhất là khu gần kênh Tàu Hủ từ đường Trần Hưng Đạo vào đến Chợ Lớn, càng dễ bị ngập lụt trong mùa mưa mà ta thường chứng kiến. Ngay cả lúc vào đầu thế kỷ 20, đường Lê Lai vì vị trí thấp so với các đường phía trong xa sông như Nguyễn Đình Chiểu, Điện Biên Phủ, Nguyễn Thị Minh Khai nên lúc có những trận mưa lớn đều bị lụt.

Saigon là điểm chuẩn coi như trung tâm của Nam bộ chia ra thành hai Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ.

Khi di dân đến vùng ngã ba sông Saigon-kênh Tàu Hủ-rạch Thị Nghè định cư ở dọc bờ sông và rạch, thì phía trong về hướng Tây và Bắc vẫn là rừng hoang rất thưa dân. Ở đó vẫn còn những thổ dân bản địa và hoang thú, nhưng dần dần được khai hoang trồng trọt và nơi mồ mả chôn cất được đặt ngoài thành phố Gia Định, như vùng Gò vấp, cánh đồng tập trận và cánh đồng mả. Vào thế kỷ 18, Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục”, cho biết vùng Saigon còn rừng rậm dày đặc, người “mọi” (Mán) được dùng làm nô lệ cho lưu dân đến vùng đất mới lập nghiệp (6)

Như vậy những chủ nhân chính của vùng đất Gia Định, người Mạ, không những đã bị tước đất mà còn bị dồn vào tư thế phải bán con làm nô lệ cho lưu dân người Việt đến lập nghiệp. Ngay cả cho đến giữa thế kỷ 20, Bình Nguyên Lộc sinh trưởng ở Đồng Nai và Biên Hòa cho biết ở vùng Tân Uyên, Biên Hòa, những người Mạ làm tôi tớ cho người Việt vẫn còn và họ đã bị Việt hóa hầu hết vì cha mẹ tổ tiên của họ đã rút về Lâm Đồng và vùng cao nguyên (8).

Trong ngôn ngữ ở miền Nam ngày nay, vẫn còn nhiều từ có nguồn gốc từ tiếng Mạ như: cẩm lai, lòng tong (cá), đau xóc, chết giấc, cà nanh, dầu long, qua, bậu…(7). Địa danh Đồng Nai cũng bắt nguồn từ tiếng Mạ “Đạ Đờng” (Sông Đồng) nơi gần nguồn từ cao nguyên Lâm Đồng chảy xuống vùng đồng bằng với cánh đồng nhiều nai ở gần Biên Hòa (Hố Nai).

Thời tiền sử đến thế kỷ 16:

Vùng đất Saigon, cũng như toàn khu vực đồng bằng Đông và Tây Nam bộ, được bồi đắp bởi sông Saigon, Đồng Nai, Vàm Cỏ và Cửu Long, bao phủ bởi rừng, cây cối rậm rạp. Sinh vật như cọp, beo, voi, tê giác, nai… sinh sống trải dài khắp nơi từ cao nguyên, các tỉnh Bình Thuận, Bà Rịa đến tận Cần Thơ và Cà Mau. Và trong sông rạch có nhiều cá sấu, rùa và cá heo đặc hữu.

Lương thư sử của Trung quốc cho biết vào thế kỷ thứ 6, vương quốc Phù Nam đã gởi đến triều đình nhà Lương một con tê giác và trước đó vào thời nhà Tấn một con voi.  Các lá vàng tìm thấy ở các di chỉ thuộc nền văn minh Phù Nam cho thấy chạm trên các lá vàng này là hình các hình voi như ở Gò Thành (Tiền Giang), Gò Xoài (Long An), Kè Một (Kiên Giang), hoặc chạm hình hưou nai ở các di chỉ mộ táng ở Nền Chùa và Đá Nổi ở Kiên Giang (15). Ngoài ra ở các di chỉ ta còn tìm thấy các xương răng động vật như voi, heo rừng, cá sấu, hưu đầm lầy (cervus porcinus), cá, rùa…

Cho đến thế kỷ 19, nhiều loài thú trên vẫn còn sinh sống ở nhiều nơi khắp đồng bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Ông George Dürrwell, luật sư và là chủ tịch Hội “Etudes indochinoises de Saigon” sống ở Nam kỳ trong các năm 1881 đến 1910, đã mô tả như sau (2):

“Những con cọp và beo không phải là các loài thú duy nhất sống ở vùng quê Nam kỳ, mà còn có các đoàn voi hoang dữ phá hoại. Ngày xưa chúng ở khắp nơi trong vùng Đồng tháp mười (plaine des Joncs) rộng lớn, nơi mà một vài thợ săn gan dạ, người Âu và người bản sứ, đã có một cuộc chiến tranh đẩm máu với chúng, và sau đó chúng đã dần dần rút về phía bắc, để vào xứ sở đất khmer, nơi mà trong số các con voi có những con mà thiên nhiên đã cẩn thận quan tâm sinh ra các con voi trắng (albino), các con voi trắng này trở thành con vật đặc biệt được người khmer sùng bái, tôn kính.

Gần đây những con voi to lớn vẫn còn làm nhiều người nói về chúng khi các con voi này đi vào vùng Cần Thơ mà chúng phá hoại không thương tiếc, tàn phá tất cả những gì trên đường chúng đi qua.

Những cuộc săn bắn thật sự được tổ chức chống lại các đàn voi đều không có hiệu quả: những thợ săn voi cự phách nổi tiếng, thực tế đã biến mất khỏi thuộc địa này cùng lúc với Tổng đốc Lộc đã ngủ giấc ngủ cuối cùng trong một nghĩa địa nhỏ ở Cái Bè, và người bạn đồng hành dũng cảm trong các cuộc thám hiểm của ông Lộc, bá tước V.., cựu thống sứ (resident superieur) ở Cam Bốt, mà mới đây tôi đã có dịp đi đưa đám tang ở trong thành phố lớn Paris của chúng ta, nơi mà ông ta đã tìm thấy một nơi yên nghĩ tốt đẹp xứng đáng”.

Hình 1 - Một con voi bị bắn hạ ở cánh đồng thuộc tỉnh Cần Thơ thời Pháp thuộc (nguồn: http://www.delcampe.net/page/list/language,E,cat,6556,var,Postcards-Asia-Vietnam.html).

Hình 1 – Một con voi bị bắn hạ ở cánh đồng thuộc tỉnh Cần Thơ thời Pháp thuộc
(nguồn: http://www.delcampe.net/page/list/language,E,cat,6556,var,Postcards-Asia-Vietnam.html).

Thời tiền sử:

Khi con người bắt đầu đến vùng đất Saigon và vùng phụ cận chung quanh bao gồm vùng Đông và Tây Nam bộ, môi trường sống của họ rất phong phú và họ sống theo lối sống hái lượm trong rừng và thu hoạch dưới sông rạch, không định cư nhất định ở một nơi.  Họ đến Đông Nam Á từ Nam Á (và trước đó từ Phi Châu) cách đây khoảng 47000 năm (22).

Nếu chúng ta đi ngược thời gian thì cách đây hơn 3 ngàn năm, thì bờ biển từ cửa các sông Đồng Nai- Thị Vại, Vàm cỏ, Cửu Long đến Cà Mau và Kiên Giang còn nằm nhiều cây số bên trong đất liền trước khi được phù sa bồi đắp nới rộng ra cho đến vị trí ngày nay.

Nhưng nếu đi xa hơn nữa quá thời Holocene (cách đây 12000 năm khi thời kỳ băng hà cuối chấm dứt) vào thời Pleistocene (từ 2 triệu năm đến 13,000 năm trước đây) trong thời kỳ băng hà cuối (Pleistocene có nhiều thời kỳ băng hà và tan băng) cách đây 20000 năm thì mực nước biển còn thấp (từ 100m đến 150m dưới mực nước biển hiện nay) (23).  Lúc đó thềm lục địa ở biển Đông và cả vùng vịnh Thái Lan từ mủi Cà Mau đến Sumatra, Java, Borneo đều ở trên mực nước biển làm thành một vùng đất to lớn mà các nhà địa chất gọi là Sundaland nối liền các đảo Sumatra, Java, Bali, Borneo… với lục địa Á châu.

Trước khi biển tiến cách đây 14,000 năm thì Sundaland cho phép các loại động vật cũng như người cổ ở Đông Nam Á phát tán và đi qua các “cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này. Con người cũng đã đi đến lục địa Úc châu từ Đông Nam Á và Sundaland qua các eo biển hẹp ngăn cách Úc với Sundaland.

Con người đã đến Úc cách đây hơn 50000 năm, sớm nhất từ Phi Châu, trước khi có đợt hai từ Trung Đông đến Âu châu. Động vật như loài voi hiện diện ở khắp vùng Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka, Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Đông Dương, Mã Lai đến các đảo hiện nay Sumatra, và Borneo. Loài voi, Elephas maximus sumatranus, ở đảo Sumatra và Borneo giống như loài Elephas maximus maximus ở Sri Lanka và Elephas maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác.

Các di chỉ con người cổ được tìm được ở Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân (lúc bấy giờ còn nối liền nhau) và qua các phương pháp định tuổi của chúng cho thấy đột tuổi theo tuần tự thời gian là từ khoảng 47000 năm BP (Thái Lan) cho đến đến 40000-35000 năm BP (Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân, quần đảo Bismarck). Như vậy con người có thể đến vùng Nam bộ và Tây nguyên vào khoảng 40000 năm cách ngày nay.

Chúng ta hiện nay không biết nhiều về cuộc sống xã hội, hình thái chủng tộc của những người đầu tiên này. Họ có liên hệ đến người thuộc chủng negrito, hay australoid mà hậu duệ vẫn còn hiện nay ở quần đảo Andaman và Nicobar ở Ấn Độ Dương, trong rừng sâu ở bán đảo Mã Lai, quần đảo Phi Luật Tân hay là người Papua ở Papua New Guinea và thổ dân Australian ở Australia hiện nay.

Một bộ xương hầu như còn nguyên vẹn đã được tìm thấy tại một di chỉ hang đá gọi là hang Gua Gunung Runtuh ở Perak, Mã Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ xương này cho thấy xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở hình thái răng và chân tay, và giống những mẫu sọ người ở thời kỳ Mesolithic (đá trung kỳ) ở Mã Lai và đảo Flores. Sự khám phá này, cùng với các xương tìm thấy ở hang đá Tabon (Palawan, Phi Luật Tân) và Niah (bắc Borneo, Sarawak thuộc Mã Lai), hay Ngandong và Wejak cho thấy những người cổ ở Sundaland trong thời Pleistocene muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay.

Các đặc tính qua đo lường ở răng và xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy các đặc tính này vẫn còn thấy ở các dân cư trong vùng Đông Nam Á cho đến đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở đặc tính về sọ đã được tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu tiên vùng Đông Nam Á so với các sọ cổ Sundaland (23).

Trong một nghiên cứu di truyền mới nhất về sự liên hệ của người cổ thổ dân negrito ở bán đảo Mã Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á và Đông Á. Qua phân tích mitochondria DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người negrito ở Mã Lai trong bộ sưu tập Duckworth Collection và các nhóm người khác cho thấy lúc đầu họ chỉ trong phạm vi tây nam Trung quốc, bán đảo Đông Nam Á và Indonesia nhưng sau đó họ đã phát tán nhanh chóng đi khắp Đông Nam Á vào giữa cuối thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây 13000 năm (23).

Cách đây từ khoãng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu toã ra đi đến cư ngụ ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó trong những môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật lần lần một cách có hệ thống. Sự kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đã cho phép họ thiết lập được đời sống vĩnh viễn, không đi đâu xa, quanh quẩn ở các hang, chủ yếu là gần nguồn nước; đây là cách sống lần lần được các nhóm khác, sống trãi rộng trong khắp vùng, tiếp thu và thâu nhận.

Văn hóa của những nhóm người này được gọi là văn hóa Hòa Bình, do sự khám phá các di chỉ có cùng đặc tính chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. Sau này các di chỉ tương tự được khám phá ở nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Các đặc tính chung mà ta có thể thấy được về kỹ thuật, tập quán và đời sống hàng ngày trước đây và cho đến tận ngày nay của nhiều sắc dân ở Đông Nam Á.

Cách đây khoảng 14000 năm, mực nuớc biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà đã cắt đứt các “cầu” đất liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục địa Á châu. Và qua đó đã làm tăng nhanh quá trình phân hóa và cách ly giữa các văn hoá bản sứ trong vùng đã bắt đầu phát triển, nhất là ngôn ngữ.

Tuy vậy sự kiện xảy ra sau đó không phải là một thời kỳ của sự cách ly xa dần của các nhóm mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản sứ này dựa trên một nền tảng chung có cốt rễ là văn hóa Hòa Bình thích ứng với điều kiện riêng ở mỗi địa phương, cộng với sự truyền đạt ý tưởng và kỹ thuật đã cho phép các phát minh tỏa ra trong một vùng địa hình thiên nhiên (23).

Bắt đầu cách nay 10000 BP năm, thì con người thuộc văn hóa Hòa Bình trong thời kỳ đá mới đã có mặt nhiều nơi ở Đông Nam Á và chúng ta hiểu rõ hơn về họ so với người thời đại đá củ lúc trước, qua các di chỉ cư trú ở hang động ở bắc Việt Nam, Lào, Thái Lan… cùng các dụng cụ đá mài, gốm, xương động vật, võ sò… tìm được ở các di chỉ cư trú này.

Các vết tích của con người thời kỳ đồ đá cũ và mới được tìm thấy nhiều ở Thủ Đức, Biên Hòa, Xuân Lộc trong lưu vực thượng nguồn sông Saigon và sông Đồng Nai.

Có thể nói là trước khi lưu dân người Việt đến thì Saigon đã là nơi định cư của các người Khmer ở phía Tây, ở phía Đông là người Mạ, Chăm, và phía Bắc là Stieng, Khmer và Mạ. Người Mạ và người Stieng là cư dân bản sứ và đã hiện diện lâu đời, có mặt trước hết từ thượng nguồn sông Đồng Nai, sông Saigon, sông Bé, sông Vàm Cỏ xuống đồng bằng hạ lưu của các sông này và sông Tiền Giang cho đến Cần Giờ, Mỹ Tho. Ngôn ngữ của họ, cũng như của người Mnong ở Dak Lak, thuộc hệ Mon-Khmer.  Ngày nay người Mạ chỉ còn một số ở Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận và người Stieng còn ở rãi rác rất ít trong hai tỉnh Tây Ninh và Bình Phước.

Cách đây không lâu vào đầu thế kỷ 20 đến giữa thế kỷ 20, người Mạ vẫn còn nhiều ở các vùng Bà Rịa, Biên Hòa, Xuân Lộc (Đồng Nai) nay cả các địa phận quanh Saigon như Thủ Đức và người Stieng vẫn còn ở Tân Uyên, và chung quanh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Trước đó vào đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng John White khi viếng thăm Saigon đã thấy người “mọi” trong Saigon dự cuộc triễn lãm do Tả quân Lê Văn Duyệt tổ chức và được Tả quân cho biết đó là những chủ nhân vùng đất này trước khi lưu dân người Việt và Hoa đến.

L. Jammes (2) trong quyển “Souvenir du pays d’Annam” (3) đã cho biết trong đoàn quân của Nguyễn Tri Phương giữ thành Kỳ Hòa có nhiều người “mọi” thổ dân được dùng để xung kích, la ó dữ dằn cốt làm sợ hải quân Pháp. Khi Pháp chiếm và xây dựng lại Saigon trong những năm 1860s thì một con đường Saigon đã được đặt tên là Rue des Mois (sau đổi tên là Rue Richaud, nay là Nguyễn Đình Chiểu) do có nhiều thổ dân ở đó.

Khi người Khmer, thừa hưởng kế tục văn minh Phù Nam, từ vùng châu thổ sông Cửu Long phía Tây và phía Tây bắc đến và người Chăm từ phía Đông xuống thì hai tộc Mạ và Stieng bắt đầu rút dần lên thượng nguồn, rừng rậm và núi. Saigon là nơi giao điểm của cư dân đồng bằng Khmer, Chăm và cao nguyên Mạ, Stieng. Các vết tích kiến trúc, nghệ thuật của người Khmer được tìm thấy ở nhiều nơi trong Saigon và vùng phụ cận.

Khảo cổ học trong vùng lưu vực các sông Đồng Nai, Saigon, Sông Bé và Vàm Cỏ cho thấy những di chỉ khảo cổ tiền sử phong phú từ thời đồ đá đến thời kỳ đồ đồng và sắt.

Rất nhiều di chỉ khảo cổ thời tiền sử được tìm thấy ở chung quanh Saigon trong khu vực miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là vùng lưu vực sông Đồng Nai. Mộ cổ cự thạch Hàng Gòn là di chỉ nổi tiếng nhất ở gần Xuân Lộc (Đồng Nai) được phát hiện vào năm 1927. Mộ cổ cự thạch do kỷ sư Jean Bouchot phát hiện khi ông thực hiện công trình mở đường từ Long Khánh Xuân Lộc đi Bà Rịa trong địa phận của một đồn điền cao su.

Hai năm sau, khám phá này đã được công bố chi tiết trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác Cổ (1929). Khám phá này đã gây ra nhiều sự chú ý và bàn cãi giữa các nhà khảo cổ học về nguồn gốc, niên đại, chủ nhân và sự liên hệ với các di tích cự thạch khác ở các nơi khác trên thế giới. Các di chỉ cự thạch trên các mộ chôn tương tự tìm được ở Lào (như Hintang Houamuang, San Kong Phanh, tỉnh Houaphan) cho thấy có thể có sự liên hệ của con người thời tiền sử giữa vùng núi Trường Sơn Lào, Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.

Vào năm 1984, mộ cổ cự thạch Hàng Gòn được chính thức xếp vào di tích quốc gia. Đây là mộ đá tảng lớn (dolmen) hình hộp chữ nhật dài 4.2 m ngang 2.7 m cao 1.6m được ghép bằng 6 tấm đá hoa cương nguyên khối. Tấm nắp đậy dầy khoảng 30cm và nặng hơn 10 tấn. Theo các nhà địa chất học thì đá hoa cương chỉ có ở phía bắc vùng Đà Lạt hay Phan Rang. Di chuyển, nâng và rắp ghép các tảng đá khổng lồ như vậy là một kỳ công của cư dân tiền sử.

Gần mộ đá lớn Hàng Gòn, khoảng chục cây số trong khu đồn điền cao su, có các di chỉ thời đá mới cạnh các suối mà Saurin đã khai quật sau khi được các chủ đồn điền thông báo (18). Ngoài ra, trong khu vực vùng Dầu Giây-Xuân Lộc còn có nhiều di chỉ đồ đá cũ do Saurin phát hiện, có tuổi cách đây hơn 10000 năm. Cũng trong khu vực này cũng khám phá các khuôn đồng với niên đại được xác định là khoảng 2000±250 năm trước Công nguyên.

Hiện nay các nhà khảo cổ cho rằng chủ nhân mộ cổ cự thạch và nhiều di chỉ đồ đá ở Đồng Nai là cư dân thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian Nam Đảo (18)(19). Tuy nhiên cũng không loại bỏ họ là thuộc hệ Austroasiatic Mon-Khmer, tổ tiên của người Stieng, Mạ, Châu Ro ngày nay, đã đến và cư trú đầu tiên ở vùng Đông Nam Bộ.

Di chỉ đồ đá nổi tiếng nhất ở Đồng Nai là di chỉ Cù Lao Rùa, cách Biên Hoà 5.5km, được khám phá từ năm 1888 do Émile Cartailhac khai quật tìm thấy nhiều rìu đá, cuốc, mai đá. Di chỉ này đã được khai quật nhiều lần trong nhiều năm tiếp theo bởi nhiều nhà khảo cổ học và tìm được hàng mấy trăm rìu đá có vai được mài bóng, nhiều đồ gốm nung. Ở Cù Lao Phố, Bình Đa gần đấy, cũng tìm được vài rìu đá mài nhưng không bằng như ở Cù Lao Rùa.

Di chỉ đồ đá Phước Tân nằm ở phía đông trên đường Biên Hòa-Vũng Tàu ở cây số 42, được khám phá khi khởi xây một trại hủi và được Fontaine mô tả (9). Di chỉ này rất phong phú hơn cả di chỉ Cù Lao Rùa, có nhiều hiện vật đá như rìu, cuốc, đục có vai và một số gốm thô.

Trong những năm 1886-1890, Thomas Holbé(1) đã thu thập ở Biên Hoà nhiều hiện vật tiền sử cùng với một số hiện vật ở 20 nơi khác trong vùng lưu vực sông Đồng Nai như Mỹ Lộc (Cần Giuộc, Long An), Bến Gò (Tây Ninh), trong đó có 10 rìu đồng. Trong tổng số 1200 hiện vật thì 91% là từ Biên Hòa. Bộ sưu tập được triễn lãm ở hội chợ quốc tế 1889.

Di chỉ Bến Đò (huyện Thủ Đức) cách cầu xa lộ 3km, rất phong phú gồm có 214 công cụ đá với nhiều rìu đá có vai và hàng ngàn mảnh gốm. Cuối năm 1975, các nhà khảo cổ Việt Nam đã phát hiện ra di chỉ Cầu Sắc (huyện Xuân Lộc). Ở nơi đây có 772 công cụ đá mới (gồm rìu có vai, rìu tứ giác..), gốm tìm được. Qua các hiện vật, đời sống dân cư ở đây chủ yếu là săn bắn trong rừng rậm.

Ở về phía vùng đất đỏ miền đông Nam bộ giáp với nam Trường Sơn, trong tỉnh Tây Ninh và ở Lộc Ninh có những di tích thuộc loại hình thành đất vòng tròn. Thành đất gồm hai vòng tròn đồng tâm với vòng ngoài có bán kinh khoảng 120m. Những thành đất này tương tự các thành đất ở Cánh đồng chum (Lào), ở Thái Lan và ở tận Madagascar cho thấy chủ nhân những di tích này có thể là người Austronesian hay ít nhất có quan hệ với người Austronesian Champa như Malleret đã đặt ra (19). Những hiện vật tìm thấy gồm rìu đá mài, bàn mài, mủi nhọn, gốm xám tro hay nâu đỏ.

Sau thời đại đồ đá là thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt. Di chỉ Suối Chồn gần di chỉ Cầu Sắc được phát hiện vào năm 1978, thuộc thời đại đồng thau, gồm nhiều đồ đồng như rìu, lưỡi hái.. và một số hiện vật đá (rìu) (18). Di chỉ Dốc Chùa (Bình Dương), khám phá vàn năm 1976, đánh dấu giai đoạn cao của thời đồng thau, có rất nhiều rìu đá, gốm, hiện vật đồng, khuôn đồng, tượng thú, hạt chuổi mã nảo, thuỷ tinh v.v.. (18)

Ở Dầu Giây, Suối Đá (Xuân Lộc) và Phú Hòa đã phát hiện di chỉ có các hiện vật chuổi thuỷ tinh, hoa tai đồng, các mộ chum mai táng, đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh. Chứng tỏ văn hóa Sa Huỳnh đã phát triển ở vùng Đông Nam Bộ trên địa bàn lưu vực sông Đồng Nai. Ở Saigon khi đào móng xây nhà thờ lớn (Đức Bà) đã phát hiện di cốt người trong các chum/vò gốm. Bộ sưu tập này đã mất. Đây là phát hiện sớm nhất các mộ chum, trước cả sự phát hiện mộ chum ở Sa Huỳnh ở miền trung mà sau này được gọi là văn hóa Sa Huỳnh (9).

Năm 1985, các nhà khảo cổ Việt Nam đã khám phá ở gần xã Quảng Ngãi, huyện Đa Huoai, Lâm Đồng trên tả ngạn sông Đồng Nai một khu di tích lớn trên nhiều gò vết tích kiến trúc lớn bằng gạch, các tượng linga, bệ thờ linga-yoni, hình thần siva dập nổi trên một tấm bạc mỏng, thần Uma chiến thắng quỉ trâu, một số rìu đá mài, vòng đồng và gốm cổ. Mặc dầu đây là vùng cư ngụ của dân tộc bản địa Mạ nhưng khu di tích này cho thấy có sự quan hệ văn hóa với Champa và văn hóa hậu Óc Eo (19).

Trong khu vực Saigon-Chợ Lớn, Etienne Aymonier (1901) đã ghi nhận tại gò Cây Mai có các những công cụ thời tiền sử gồm những lưỡi cuốc/mai, đục bằng đá mài và rìu nhỏ bằng đồng (19). Năm 1980, ở Vũng Tàu, trong một lòng ao, đã phát hiện một trống đồng Đông Sơn có sao 12 cánh ở giữa mặt trống. Và cuối cùng năm 1984, nhân dân lúc đi làm rẫy đã phát hiện một “kho” vũ khí đồng (qua đồng), rìu đồng ở Long Giao (huyện Xuân Lộc) có liên hệ với văn hóa Đông Sơn (19). Trên 2 mặt qua đồng có trang trí hoa văn rất đẹp, cân xứng giống hệt nhau. Đây là điểm cao của văn hóa đồng ở Đồng Nai.

Những nguyên tắc khi đi phụ tour

0

NHỮNG NGUYÊN TẮC KHI ĐI PHỤ TOUR

Các bạn hãy cùng tham khảo những nguyên tắc khi đi phụ tour để hiểu hơn trong công việc của mình nhé.

1. Sinh viên năm 1, năm 2 muốn đốt cháy giai đoạn . Chúng tôi hiểu nhu cầu của các bạn rất nhiều nhưng tôi không khuyến khích các bạn “còn non” để theo cọ xát. Nhiệm vụ của các bạn là học lý thuyết cho thật vững trước khi ra “sa trường”. Vì nghề hướng dẫn viên (HDV) không phải là nghề ngọt ngào như bạn nghĩ. Việc cọ xát mà gặp xui xẻo thì chắc 80% bạn chỉ muốn bỏ nghề mà thôi. Nêu chú tâm học hành đi đã.

2. Đừng nên đòi yêu sách này nọ! Các bạn ạ, hãy nên hiểu vị trí chúng ta đang ở đâu và chúng ta là ai? Doanh nghiệp sẵn sàng chi trả nếu bạn chứng minh được bạn làm được nghề. 99% không ai muốn trả lương cho người đi học việc đâu bạn. Chưa kể tôi từng chứng kiến có bạn còn đòi hỏi được ăn ngủ như khách 4 sao trong khi HDV chính thì đang nằm võng ngủ qua đêm vì không còn phòng nội bộ. Có bạn còn đòi chia tiền tip nữa chứ. Hy vọng các bạn hiểu ý tôi

3. Các bạn nên trân trọng bản thân mình. Nhìn 1 cái email, 1 cái thư, 1 cái CV sơ yếu lý lịch, người có kinh nghiệm sẽ đánh giá được bạn là ai và có nên cho bạn đi theo không! Nếu bạn không biết trân trọng bản thân mình thì chẳng ai “dám” trân trọng bạn đâu.

4. Lên xe không được ngủ như khách

5. Khách chưa say xe mà phụ tour HDV bị trước, haizzzz, éo le tận khủng

6. Sửa lời HDV: cái này quá nhiều bạn mắc phải, cứ nghĩ kiến thức mình giỏi vì có trường lớp nên hay …đừng chạm tự ái của hướng dẫn viên chính nhé . Trên xe, trên tour thì họ là thầy của bạn. Đúng hay sai bạn phải nghe, nếu thấy chưa đúng thì đừng học.

7. Không bám tour mà bỏ đi mua sắm: Cái này quá nhiều bạn bị luôn, các bạn tưởng mình đang đi du lịch à?

8. Dẫn khách đi mua sắm riêng: bạn tin bạn sẽ bị “bỏ giữa chợ” không?

9. Quảng cáo công ty khác: cho dù bạn là ai, đã từng đi tour ở đâu thì đừng quên 1 câu : ăn cây nào, rào cây đó. 

10. Nội bộ đóng cửa bảo nhau : Khi thấy HDV chính làm chưa đúng hoặc sai ở điểm gì , xin vui lòng về phòng nội bộ đóng cửa góp ý, chỉnh sửa cho nhau. Nhiều bạn trước mặt khách thể hiện mình hơn hẳn HDV chính và bới móc những điều HDV chính làm chưa đúng trước mặt khách. Đây là hành vi không thể tha thứ.

11. Trước ngày khởi hành, HDV chính sẽ cung cự thể hiện và thực tập trên xe. Nội dung giới thiệu, thuyết minh trên xe phải đạt ít nhất 30% lượng kiến thức trên cung đường. Đoạn nào khó, hoặc không biết thì bỏ và nhường mic lại cho HDV chính.

12. Công việc đầu tiên khi phụ tour lên xe là đếm khách. (Đếm đi đếm lại vài 3 lần kẻo lạc khách). Khi đếm khách không được chỉ tay vào mặt khách, chỉ được nhẩm trong đầu thôi nhé.

13. Về chuyện ăn nghỉ. Phụ tour ăn cơm nội bộ và không phải trả chi phí nào. Nếu đến điểm tham quan mà mất vé thì HDV chính xin cho, xin ko đc thì phụ tour tự mua vé vào. Ngoài ra, HDV chính sẽ báo cho HDV phụ địa điểm và thời gian đón khách. Phụ tour đúng giờ có mặt và phải đến sớm hơn HDV chính 15p. Tránh tình trạng xe khởi hành rồi mà phụ tour vẫn chưa thấy có mặt trên xe.

14. Không tham gia đc phụ tour thì báo ngay cho HDV chính trước 2 ngày để HDV chính sắp xếp người khác. Bỏ bom HDV chính là bạn mất cơ hội phụ tour.

15. Về việc phòng nội bộ. Có 1 phòng 2 giường, 01 giường cho Lái – Phụ và 01 giường cho HDV chính. Bạn ngủ với ai tùy bạn. Không ngủ đc có thể tự bỏ tiền ra thuê phòng riêng. Tuy nhiên nếu đoàn ở KS 4-5 sao thì hơi căng vì tiền bạn khó có thể thuê đc phòng….

16. Ngủ càng đông thì càng an toàn. Một số bạn nữ sợ hãi việc đi phụ tour hay đi tour ngủ với lái xe và HDV chính sợ bị ABC- XYZ. Xin trả lời là ngủ càng đông thì càng không dám manh động, còn người nọ người kia. Ngủ riêng mới sợ.

17. Không được khóc lóc , than nghèo kể khổ với khách để xin ngủ nhờ vì như vậy là làm ảnh hưởng đến đoàn khách, Tuy khách đồng ý nhưng khi về thanh toán tour dễ nảy sinh việc khách khiếu nại với công ty, làm ảnh hưởng đến HDV chính.

18. Đâm sau lưng chiến sĩ : Một số bạn phụ tour, lúc đi phụ thì tỏ vẻ khổ sở để HDV chính thương hại, chỉ bảo hết mình, các mánh khóe trong công việc nhưng sau đó về cty lại nói xấu với điều hành khiến HDV chính mất việc để chen chân vào. Cái này mình gặp rất nhiều nhưng may mắn là cộng tác với hơn 30 cty nên không làm chỗ này ta còn chỗ khác. Đây là tình trạng phổ biến thể hiện sự ăn cháo đá bát với những bậc tiền bối đã cưu mang, chỉ dạy. HDV chính đưa bạn lên được thì cũng đạp bạn xuống được. Vì thế nên cẩn thận trước những lời ăn tiếng nói và hành động của mình.

19. HDV chính có thể đuổi bạn xuống xe bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu nếu bạn cư xử không đúng mực và vi phạm nghiêm trọng những nguyên tắc trên

20. Không được ngồi xuống ăn trước khi hướng dẫn viên chính còn đang làm việc. Nhiều bạn đến nhà hàng là tót đi ăn để mặc HDV chính. Đến khi HDV chính ăn thì bạn ấy đã xỉa răng xong rồi

21. Nên xin số nhà hàng và lái xe để tạo mối quan hệ. Tối rảnh thì nên đi tham quan các nhà hàng, khách sạn quanh đó xem có chỗ nào đẹp hơn, to hơn không? Nên khảo sát về chất lượng dịch vụ nơi đó, điều này rất quan trọng mà nhiều bạn cực rất lười.

22. Hạn chế sử dụng điện thoại trong quá trình làm việc. Nhất là chụp ảnh tự sướng quá nhiều hoặc buôn điện thoại với người yêu.

23. Những việc không liên quan ta không nên xen vào, không nên nói xấu ai. Việc ai nấy làm. Du lịch là ếch chết tại miệng.

24. Nếu đoàn típ cho bạn, bạn có thể vô tư nhận nó mà không phải nghĩ gì. Tuy nhiên bạn nên cảm ơn hướng dẫn viên chính vì nếu không có HDV chính bạn sẽ không có được số tiền típ đó đâu

25. Và cuối cùng : Đi phụ tour thì đừng nói câu : Em chưa chuẩn bị kiến thức và tài liệu”. Phải chuẩn bị đầy đủ, đọc trước các thông tin về tuyến điểm, ghi chú lại những vấn đề trọng tâm, số liệu, sự kiện nổi bật.

Chúc các bạn thành công!

 

 

Kỹ năng tổ chức trò chơi lớn trong tổ chức sự kiện

0

KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI LỚN TRONG TỔ CHỨC SỰ KIỆN

Trong các hoạt động dã ngoại, hoặc tổ chức các sự kiện teambuilding, các bạn sẽ được tham dự những trò chơi mà nhất là tham gia Trò chơi lớn là niềm thích thú của các bạn. Những diễn biến của trò chơi lớn mang lại cho người chơi những vui buồn và thông qua trò chơi thì người tổ chức mong muốn cung cấp những kiến thức về văn hóa lịch sử, truyền thống, kỹ năng sinh hoạt tập thể…

Bên cạnh đó, thông qua Trò chơi lớn, người tổ chức hiểu thêm về các trại sinh những mặt ưu và khuyết từng người.

– Nếu bạn là người đi trại nhiều nhưng chưa một lần được tham dự Trò chơi lớn thì xem như những cuộc trại của bạn sẽ mất đi một phần ý nghĩa và hào hứng.

– Trong khi tham gia Trò chơi lớn thì việc được tìm hiểu thêm về ý nghĩa cuộc chơi và kiến thức là then chốt. Còn lại là những trò chơi vận động, thử thách nhỏ được kịch bản hóa để nêu bật lòng can đảm, trí thông minh, sự khéo léo và nhanh nhạy của các bạn. Người chơi như cuốn vào những trận đánh, hóa thân thành những chiến sĩ giải phóng quân hoặc sẽ đóng vai thành những dũng sĩ tiêu diệt cái ác bảo vệ hòa bình… và thế là họ xung trận một cách vô tư, nhiệt tình để rồi có những cảm xúc đọng lại sau khi trò chơi kết thúc.

– Để tham dự Trò chơi lớn bạn cần phải có một vốn kiến thức về lịch sử xã hội. Ngoài ra, bạn cần biết thêm một số kỹ năng sinh hoạt như: morse, sémaphore, mật thư… và các kỹ năng cơ bản khác.

– Trò chơi lớn đòi hỏi các bạn tham gia không chỉ ở cá nhân bạn mà còn thử thách ngay chính tính tập thể của đội mà bạn tham gia. Nếu có sự đoàn kết nhất trí cao độ trong toàn đội thì sẽ tạo được kết quả như đội mong muốn. Không có Trò chơi lớn nào mà đội chiến thắng lại chỉ là một người.

TRÒ CHƠI LỚN LÀ THẾ NÀO?

– Để có thể tổ chức tốt một chương trình Trò chơi lớn thật hấp dẫn, vui tươi thì phải đòi hỏi một số yêu cầu như sau:

I. ĐỐI VỚI NGƯỜI CHỈ HUY CHUNG:

1. Phải xác định chủ đề, tên gọi, mục tiêu của Trò chơi lớn:

– Chủ đề của Trò chơi lớn có thể là: những câu chuyện lịch sử truyền thống, chuyện cổ tích thần thoại, chuyện phiêu lưu mạo hiểm, trinh thám, khoa học viễn tưởng hay họp bạn…

– Tên của Trò chơi lớn phải gắn với chủ đề nhằm giúp người chơi vào vai trong suốt cuộc chơi. Ví dụ như: Đi tìm kho báu của Thần Mặt trời, Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hành trình khoa học…

– Mục tiêu và yêu cầu của trò chơi là nhằm kiểm tra kỹ năng chuyên môn, giáo dục truyền thống, rèn luyện thể chất và giao lưu giữa các bạn.

2. Phải nắm vững kỹ năng chuyên môn:

– Kỹ năng chuyên môn là gì? Là các lý thuyết được huấn luyện bây giờ ứng dụng cụ thể trong kỳ trại hay Trò chơi lớn.

– Người tổ chức Trò chơi lớn giỏi phải là người nắm vững các kỹ năng sinh hoạt tập thể như: truyền tin, mật thư, nút dây, dấu đường, cứu thương… và phải có kinh nghiệm trong xử lý các tình huống trong Trò chơi lớn như: các đội quá khích, đi sai theo lộ trình dự kiến…

3. Phải nắm rõ địa hình, địa thế:

– Trò chơi lớn có thành công không cũng phụ thuộc nhiều vào việc người thiết kế Trò chơi lớn biết chọn địa điểm sao cho phù hợp với cuộc chơi. Trên từng ngã đường, đồi núi, cây cỏ, sông suối… phải gắn liền với nội dung hoạt động cho phù hợp kịch bản.

– Mặt khác người tổ chức phải biết cách vẽ sơ đồ Trò chơi lớn, bản đồ chạy trạm và cách thức di chuyển. Cách di chuyển giữa các trạm ra sao? Hình thức chạy trạm xoay vòng hay cuốn chiếu? Đi cụm hay từng đội riêng biệt?

– Để thực hiện tốt việc bố trí trạm qua căn cứ địa hình, bắt buộc người tổ chức phải tham gia tiền trạm.

* Ghi chú: “tiền trạm” là một thuật ngữ trong sinh hoạt để nêu lên quá trình nghiên cứu thực địa nơi ta dự kiến tổ chức hoạt động nhằm nắm được các yếu tố thiên nhiên và con người địa phương. Qua đó tổ chức tốt các hoạt động tại trại.

4. Bố trí lực lượng cho Trò chơi lớn:

a. Đối với lực lượng Ban tổ chức:

– Phải xác định có bao nhiêu trạm, địa điểm ở đâu?

– Mỗi trạm bao nhiêu người? Có đủ sức không?

– Nhiệm vụ của từng thành viên trong mỗi trạm?

– Việc điều phối bổ sung lực lượng của trạm ra sao?

– Nội dung mỗi trạm làm gì? “Kỷ luật – Thống nhất – Công bằng – Tuyệt đối bí mật” là những nguyên tắc mà mỗi thành viên trong Ban tổ chức phải chấp hành.

b. Đối với người tham gia Trò chơi lớn:

– Số lượng người chơi là bao nhiêu?

– Sự chênh lệch giữa nam

– nữ? Điều đó có quan trọng không?

– Độ tuổi của người tham gia? Có ảnh hưởng gì không?

– Trình độ và mức độ tham gia của các đội? Nếu ta trả lời được những câu hỏi đặt ra thì ta sẽ thiết kế trò chơi vừa sức, không quá khó hay quá dễ. Cuối cùng có thể chuẩn bị cho mỗi đội tham gia có đặc điểm riêng biệt nhằm dễ nhận biết như nón, áo, thẻ đeo…

5. Xác định thời gian diễn ra Trò chơi lớn:

– Ta căn cứ vào những yếu tố: tổng số trạm, đoạn đường di chuyển, trình độ tham gia của các đội và mức độ các nội dung thử thách để xác định thời gian tối thiểu và tối đa cho từng trạm và cả cuộc chơi.

– Tùy vào chủ đề, địa điểm, thời tiết, điều kiện tổ chức, đối tượng tham gia mà ta xác định thời điểm xuất phát và kết thúc của cuộc chơi: ban đêm, khuya, sáng hay chiều.

6. Chuẩn bị phương tiện, dụng cụ:

– Ta phải căn cứ vào nội dung thử thách từng trạm mà tiến hành chuẩn bị các dụng cụ cho cuộc chơi thật đủ và chi tiết. Nên chăng có thêm công tác chăm lo sức khỏe cho người tham gia. Yếu tố vật dụng trò chơi cũng được xem là quan trọng vì nó diễn tả ý đồ kịch bản được hoàn hảo.

– Trước khi diễn ra Trò chơi lớn phải họp Ban tổ chức để rà soát lại sự chuẩn bị của các trạm và có thể thông báo cho các đội và cá nhân người tham gia những vấn đề cần chuẩn bị trước.

7. Xây dựng kịch bản và diễn tiến Trò chơi lớn: 

Khi đã nắm vững các yêu cầu trên thì công việc cuối cùng là viết kịch bản Trò chơi lớn bao gồm:

a. Những vấn đề chung:

– Tên trò chơi? Mục đích, yêu cầu? Số lượng tham gia?

– Thời gian tiến hành? Nội quy và hiệu lệnh chung?

– Biên chế đội? Vật dụng các trạm?

b. Diễn biến trò chơi phải tuân theo trình tự như kịch bản:

– Trạm xuất phát ở đâu? Kết thúc ở đâu?

– Diễn biến chạy trạm? Xoay vòng hay cuốn chiếu?

– Ai chịu trách nhiệm điều phối diễn biến trò chơi? Trước khi chơi, người điều phối có thể giới thiệu sơ nét về tên gọi và những chặng thử thách cho người chơi. Để tạo sự bất ngờ và thú vị cho người chơi thì toàn bộ kế hoạch Trò chơi lớn phải được giữ bí mật tuyệt đối.

II. ĐỐI VỚI NGƯỜI THAM GIA:

1. Phải có sức khỏe:

 Đây là tiêu chuẩn đầu tiên vì Trò chơi lớn đòi hỏi sự vận động tối đa cả về trí tuệ và sức lực, nếu sức khỏe yếu sẽ ảnh hưởng cho đơn vị trong quá trình chơi.

2. Phải có kỹ năng:

 Người chơi phải biết ít nhất một trong những nội dung sinh hoạt tập thể để thực hiện tốt các nội dung tại trạm. Đa số qua các Trò chơi lớn thì lực lượng “ăn theo” dường như đông hơn những bạn có chuyên môn. Qua cuộc chơi thì những bạn này cũng sẽ rút ra những kinh nghiệm và bài học cho riêng mình để phấn đấu trong thời gian tới.

3. Phải có tính kiên trì, chịu khó, linh hoạt, sáng tạo và chủ động được thời gian:

 Đây là vai trò, đức tính của người phụ trách, đội trưởng mỗi đội. 4. Phải trung thực, ý thức kỷ luật và tinh thần tập thể cao: Đây là nguyên tắc bắt buộc của người tham dự Trò chơi lớn.

 

 

 

Một số thuật ngữ liên quan kinh doanh lữ hành

0

MỘT SỐ THUẬT NGỮ LIÊN QUAN KINH DOANH LỮ HÀNH 

Trong công việc kinh doanh lữ hành, bạn sẽ gặp một số các từ viết tắt và các thuật ngữ chuyên môn mà không được giảng tại nhà trường. Việc này sẽ gây khó khăn khi các bạn lần đầu tiếp xúc với các sản phẩm du lịch và khi tiếp xúc với du khách cũng như trong điều hành tour.

Các bạn quan tâm đến du lịch có thể tham khảo các khóa học bên huongdanviendulich.org. Lớp Bán điều hành sẽ giúp cho bạn có những kiến thức về nghiệp vụ du lịch cần thiết cho một nhà Sales& điều hành tour trong tương lai.

Phân loại các khái niệm:

Inbound: Khách du lịch quốc tế, người Việt tại Hải ngoại đến thăm quan du lịch Việt Nam.

Outbound: Người Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam đi thăm quan đi thăm quan các nước khác

Nội địa: Người Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam đi thăm quan đi thăm quan du lịch Việt Nam

Leisure Travel: Chỉ loại hình du lịch phổ thông cho khách thăm quan, nghỉ dưỡng theo các hành trình thăm quan thông thường. Loại hình này phù hợp với hầu hết các đối tượng khách.

Adventure travel: Chỉ loại hình khám phá và hơi có chút mạo hiểm. Loại hình này thường phù hợp với khách trẻ và thích tự do khám phá. Trong loại hình này các công ty lữ hành còn đặt cho các cái tên cụ thể hóa hình thức tour như Biking, Bird watching tour…

Trekking: Đây thực sự là tour khám phá, mạo hiểm. Bởi khách tham gia các hành trình này sẽ tới những nơi ít người qua hoặc những vùng thường chỉ dành cho người bản xứ. Tour này đòi hỏi sức khỏe tốt, khả năng chịu đựng và thích nghi cao cùng với các điều kiện dịch vụ ở mức tối thiều

Kayaking: Là tour khám phá mà khách du lịch  tham gia trực tiếp chèo 1 loại thuyền được thiết kế đặc biệt có khả nảng vượt các ghềnh thác hoặc vũng biển. Tham gia loại hình này thường yêu cầu sức khỏe rất tốt và sự can đảm trước mọi thử thách của thiên nhiên.

Homestay: Tham gia loại hình này du khách sẽ không ở khách sạn mà ở tại nhà người dân, sinh hoạt cùng người dân bản xứ.

Diving tour: Là loại hình tour tham gia lặn biển khám phá các rặng san hô, ngắm cá và cả thử thách sức chịu đựng của bản thân. Tham gia tour này bạn được cung cấp bình dưỡng khí, bộ đồ lặn và cả huấn luyện viên đi kèm nếu bạn lặn lần đầu. Thông thường bạn có thể lặn được xuống tới độ sâu 7-10m mà không vấn đề gì cho lần thử đầu tiên.

Nếu không can đảm lặn sâu (diving) bạn có thể thử bơi (snokling) với ống thở và kính bơi. Với hình thức này, bạn bơi trên mặt nước và úp mặt xuống nước để ngắm đại dương qua kính. Nếu bạn không biết bơi thì đây cũng không hẳn đã đơn giản.

Incentive: Là loại tour khen thưởng. Thông thường chỉ các đoàn khách là các đại lý hoặc nhân viên một công ty nào đó được thưởng cho đi du lịch. Đây thường là tour cao cấp với các dịch vụ đặc biệt.

MICE tour: Là khái niệm chung chỉ loại hình tour Hội thảo (Meeting), Khen thưởng (Incentive), Hội nghị (Conference) và Hội chợ (Exhibition).  Khách hàng tham gia các tour này với mục đích hội họp, triển lãm là chính và tham quan chỉ là kết hợp trong thời gian rỗi.

Các từ viết tắt trên lịch trình tour:

Thông thường bạn sẽ thấy một số từ viết tắt trên hành trình tour:

ABF: American breakfast: Bữa ăn sáng kiểu Mỹ, gồm: 2 trứng, 1 lát thịt hun khói hoặc xúc xích, vài lát bánh mỳ nướng với mứt, bơ, bánh pancake (một loại bánh bột mỳ mỏng)…nước hoa quả, trà, cà phê.

Continental breakfast: Bữa ăn sáng kiểu lục địa, thường có vài lát bánh mì bơ, pho mát, mứt, bánh sừng bò, bánh ngọt kiểu Đan Mạch, nước quả, trà, cà phê. Kiểu ăn sáng này phổ biến tại các khách sạn tại Châu Âu.

Buffet breakfast: Ăn sáng tự chọn: thông thường có từ 20-40 món cho khách tự chọn món ăn theo sở thích. Hầu hết các khách sạn tầm trung tới cao cấp đều phục vụ kiểu ăn sáng này

Set breakfast: Ăn sáng đơn giản phổ biến tại các khách sạn mini chỉ với 1 món hoặc bánh mỳ ốp la hoặc phở, mỳ với hoa quả, trà hoặc cà phê.

L = Lunch: Bữa ăn trưa

= Dinner: Bữa ăn tối

= Supper: bữa ăn nhẹ trước khi đi ngủ

Trên một hành trình tour, nếu bạn nhìn thấy ký hiệu (B/L/D) phía sau thông tin ngày tour nghĩa là ngày đó bạn được phục vụ cả 3 bữa ăn trong chương trình.

Soft drinks: Các loại đồ uống không cồn

Free flow soft drink: Thường tại các bữa tiệc; đồ uống nhẹ không cồn được phục vụ liên tục dang bình lớn cho khách tự do lấy suốt bữa tiệc.

Các khái niệm liên quan tới khách sạn:

ROH: Run of the house: khách sạn sẽ xếp phòng cho bạn bất cứ phòng nào còn trống bất kể đó là loại phòng nào. Thông thường với khách đoàn khách sạn sẽ cung cấp dạng này cho khách. Với mỗi khách sạn sẽ có cách đặt tên và phân loại phòng khác nhau. Không có bất cứ quy chuẩn nào cho cách đặt tên này nên bạn phải xem xét kỹ loại phòng của từng khách sạn tương ứng với giá tiền khác nhau. Tuy nhiên, thông thường gồm các loại như sau:

STD = Standard: Phòng tiêu chuẩn và thường nhỏ nhất, tầng thấp, hướng nhìn xấu, trang bị tối thiểu và giá thấp nhất

SUP = Superior: Cao hơn phòng Standard với tiện nghi tương đương nhưng diện tích lớn hơn hoặc hướng nhìn đẹp hơn. Giá cao hơn STD.

DLX = Deluxe: Loại phòng cao hơn SUP, thường ở tầng cao, diện tích rộng, hướng nhìn đẹp và trang bị cao cấp.

Suite: Loại phòng cao cấp nhất và thường ở tầng cao nhất với các trang bị và dịch vụ đặc biệt kèm theo. Thông thường mỗi phòng Suite gồm 1 phòng ngủ, 1 phòng khách, 2 phòng vệ sinh và nhiều ban công hướng đẹp nhất. Các khách sạn khác nhau đặt tên phòng loại này khác nhau nhằm tăng thêm mức độ VIP để bán giá cao hơn như: President (Tổng thống), Royal Suite (Hoàng gia)…

Connecting room: 2 phòng riêng biệt có cửa thông nhau. Loại phòng này thường được bố trí cho gia đình ở nhiều phòng sát nhau.

SGL = Single bed room: Phòng có 1 giường cho 1 người ở

TWN = Twin bed room: Phòng có 2 giường cho 2 người ở

DBL = Double bed room: Phòng có 1 giường lớn cho 2 người ở. Thường dành cho vợ chồng.

TRPL = Triple bed room: Phòng cho 3 người ở hoặc có 3 giường nhỏ hoặc có 1 giường lớn và 1 giường nhỏ

Extra bed: Giường kê thêm để tạo thành phòng Triple từ phòng TWN hoặc DBL.

Full board package: Tour trọn gói gồm tất cả các bữa ăn sáng, ăn trưa, ăn tối bao gồm trong chi phí tour.

Half board package: Tour trọn gói nhưng chỉ gồm các bữa ăn sáng và bữa ăn trưa hoặc ăn tối bao gồm trong chi phí tour. Bữa ăn còn lại để khách tự do.

Free & Easy package: Là loại gói dịch vụ cơ bản chỉ bao gồm phương tiện vận chuyển (vé máy bay, xe đón tiễn sân bay), phòng nghỉ và các bữa ăn sáng tại khách sạn. Các dịch vụ khác khách tự lo.

du lịch
du lịch

Nguồn tham khảo

Học nghiệp vụ điều hành du lịch nội địa tại tp HCM

0
KHÓA HỌC NGHIỆP VỤ ĐIỀU HÀNH DU LỊCH

HỌC NGHIỆP VỤ ĐIỀU HÀNH DU LỊCH NỘI ĐỊA TẠI TP HCM 

Người điều hành du lịch đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành công , mang lại sự hài lòng cho khach hàngCông việc này đòi hỏi năng lực quản lý giỏi và sự hiểu biết sâu sắc về du lịch. Với các nhà quản lý doanh nghiệp du lịch, cơ sở dịch vụ du lịch, tài nguyên du lịch, ngoài kiến thức chung về du lịch và quản lý, họ còn cần kiến thức chuyên môn về từng lĩnh vực cụ thể để lãnh đạo những bộ phận, nhân viên dưới quyền.

Theo Luật Du lịch 2017, điều kiện để kinh doanh dịch vụ lữ hành người phụ trách kinh doanh phải tốt nghiệp chuyên ngành về lữ hành hoặc có chứng chỉ điều hành tour du lịch.    

Học nghiệp vụ điều hành du lịch nội địa ở đâu tại tp HCM?

Thông báo tổ chức khóa học nghiệp vụ điều hành tour du lịch nội địa theo chương trình của tổng cục du lịch như sau :

Chương trình đào tạo kết hợp giữa kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và đào tạo kỹ năng mềm, xử lý tình huống thực tế đề cao sự tương tác giữa giảng viên và học viên. Giúp học viên có cái nhìn tổng quan về ngành du lịch – lữ hành và hướng cho học viên đam mê kinh doanh trong lĩnh vực du lịch – dịch vụ.

Điều hành Tour Nội địa:

Học viên là những người có bằng tốt nghiệp Trung cấp trở lên 

Nội dung chương trình học:

Kiến thức cơ sở ngành (40 tiết), bao gồm:

  1. Hệ thống chính trị Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến du lịch (10 tiết)
  2. Tổng quan du lịch (10 tiết)
  3. Marketing Du lịch (10 tiết)
  4. Tâm lý du khách và nghệ thuật giao tiếp (10 tiết)

Kiến thức chuyên ngành và nghiệp vụ điều hành du lịch (110 tiết), bao gồm:

  1. Tổng quan về Doanh nghiệp lữ hành (5 tiết)
  2. Thiết kế sản phẩm và tính giá chương trình du lịch (30 tiết)
  3. Tuyến điểm du lịch Việt Nam (10 tiết)
  4. Nghiệp vụ điều hành du lịch (30 tiết)
  5. Bán hàng và chăm sóc khách hàng trong doanh nghiệp lữ hành(10 tiết)
  6. Tổ chức hoạt động marketing và bán chương trình du lịch trong doanh nghiệp lữ hành (10 tiết)
  7. Tiền tệ và thanh toán quốc tế trong du lịch (10 tiết)
  8. Các thủ tục cho vận chuyển hàng không nội địa (5 tiết)

Thực hành nghiệp vụ điều hành du lịch (30 tiết)

Thực tế nghề nghiệp cuối khóa (20 tiết).

HỌC PHÍ VÀ HÌNH THỨC HỌC ÔN THI ĐIỀU HÀNH TOUR DU LỊCH

Đối với những học viên lần đầu chuyển sang làm điều hành du lịch chưa có kinh nghiệm về về nghiệp vụ điều hành tour du lịch thì học như sau:

Thời lượng học: 02 tháng (online)

Học phí học và thi: 2.600.000đ/hv

Đối với học viên đã từng là điều hành du lịch có nhiều kinh nghiệm về nghiệp vụ điều hành tour du lịch thì ôn thi như sau:

Thời lượng ôn thi: 04 buổi (online)

Học phí ôn và thi: 1.500.000đ/hv

Hồ sơ đăng ký học:

  1. Bằng tốt nghiệp trung cấp photo công chứng
  2. 3 hình 3*4
  3. CMND photo
  4. Phiếu đăng ký học do cơ sở chiêu sinh cấp

Địa điểm học tại tp HCM: 0979 86 86 57

VÌ SAO NÊN HỌC VỚI CHÚNG TÔI

  • Có đội ngũ giảng viên thường xuyên có chuyên môn phù hợp với các học phần/môn học
  • Phương án tuyển sinh và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn nghiệp vụ điều hành du lịch theo hình thức đào tạo tập trung
  • Đảo đảm đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng; có máy tính kết nối internet và kết nối với phần mềm quản lý thông tin học viên của Tổng cục Du lịch
  • Chương trình đào tạo theo quy định Tổng Cục Du Lịch

Tại sao hầu hết các tỉnh ở đồng bằng sông cửu long đều có huyện Châu Thành

0

TẠI SAO HẦU HẾT CÁC TỈNH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐỀU CÓ HUYỆN CHÂU THÀNH 

Đây là tên gọi chung để chỉ lỵ sở hay thủ phủ của tỉnh. Về sau biến thành danh từ riêng và được đặt cho hàng loạt huyện ở Nam Bộ.

Các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Hậu Giang, Trà Vinh… đều có một huyện cùng tên gọi. Đó là huyện Châu Thành

Từ Châu Thành được sử dụng khá nhiều làm địa danh ở miền Nam. Trong lịch sử, “châu thành” là danh từ chung để gọi lỵ sở hay thủ phủ của tỉnh.

Theo tác giả Nguyễn Thanh Lợi trong bài viết Địa danh Châu Thành đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (số 3/2009), sau khi chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, tháng 6/1867, Pháp ra nghị định chia 6 tỉnh Nam Kỳ ra 24 hạt tham biện.

Lỵ sở của hạt gọi là châu thành, có chức năng như một trung tâm hành chính của hạt. Tỉnh Sài Gòn có các châu thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Giuộc…; tỉnh Mỹ Tho có các châu thành Mỹ Tho, Chợ Gạo, Cần Lố, Cai Lậy.

Từ năm 1912, địa danh Châu Thành chính thức được đặt tên cho nhiều đơn vị hành chính cấp quận ở Nam Kỳ. Ở hàng chục tỉnh như Mỹ Tho, Cần Thơ, Sa Đéc, Sóc Trăng… đều có quận Châu Thành. 

Trong văn học dân gian Nam Bộ có nhiều câu có từ “châu thành”. Mặc dù trong văn bản được viết hoa, nhưng được hiểu như một danh từ chung, chỉ nơi phố xá đông đúc, văn minh.

Hiện, Châu Thành được sử dụng để đặt tên cho 11 huyện ở các tỉnh An Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Hậu Giang (có huyện Châu Thành và Châu Thành A), Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh và Tây Ninh.

Huyện Châu Thành ở tỉnh nào giáp Campuchia?

Việt Nam và Campuchia có đường biên giới chung trên đất liền dài 1.270 km. Ở Nam Bộ, đường biên giới này đi qua các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang.

Trong đó, huyện Châu Thành duy nhất có đường biên giới là thuộc tỉnh Tây Ninh. Huyện này gồm thị trấn Châu Thành và 14 xã.

Có bao nhiêu huyện Châu Thành ở Nam Bộ có thị trấn tên là Châu Thành?

TL: Có 4 thị trấn Châu Thành ở các tỉnh Nam Bộ

Trong các tài liệu chữ Hán, từ “châu thành” được ghi bằng nhiều cách với nghĩa khác nhau. Như thành sở của một châu (một đơn vị hành chính ở miền biên ải thời phong kiến); thành ngọc châu (được dùng như một biệt danh để chỉ một số thành thị) hoặc bao quanh thành phố (các địa danh Châu Thành ở Việt Nam được ghi và hiểu theo nghĩa này).

Tác giả Nguyễn Thanh Lợi trong bài viết Địa danh Châu Thành trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (số 3/2009) cho rằng, vị trí địa lý của các huyện Châu Thành hiện đều nằm ở cửa ngõ các tỉnh lỵ như tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Tây Ninh…

Điều này có nguyên nhân lịch sử. Ban đầu, châu thành chỉ các trung tâm hành chính, nơi có chợ búa, cơ quan của hạt trú đóng. Sau khi thành lập các thị xã với chức năng tỉnh lỵ, nó chiếm một phần diện tích của châu thành. Phần còn lại vẫn giữ tên cũ là quận Châu Thành và sau này là huyện Châu Thành.

Hiện, 4 thị trấn ở các huyện Châu Thành thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh cũng mang tên Châu Thành.

Huyện nào có 4 thị trấn?

TL: Huyện Châu Thành A tỉnh Hậu Giang có 4 thị trấn

Năm 2000, huyện Châu Thành (tỉnh Cần Thơ) được tách ra để thành lập mới huyện Châu Thành A. Năm 2003, tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Sau đó, Chính phủ quyết định huyện Châu Thành A thuộc về tỉnh Hậu Giang. Ngoài một phần đất của huyện này được nhập vào quận Cái Răng và huyện Phong Điền tp Cần Thơ.

Châu Thành A được coi là cửa ngõ của tỉnh Hậu Giang. Nơi hội tụ nhiều lợi thế để phát triển thương mại, dịch vụ, công nghiệp.

Hiện, huyện Châu Thành A có đến 4 thị trấn trực thuộc, gồm Một Ngàn (được chọn làm huyện lỵ), Bảy Ngàn, Rạch Gòi, Cái Tắc. 

Làm Chay là tên một lễ hội tâm linh vì cộng đồng, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, cúng cô hồn thập loại chúng sinh. Lễ hội này diễn ra ở huyện Châu Thành nào?

TL: Lễ hội Làm Chay ở huyện Châu Thành thuộc Long An

Từ “làm chay” xuất phát từ chữ đọc trại của từ “làm trai đàn” do người miền Nam phát âm sai chữ tr và ch mà ra. 

Lễ hội Làm Chay diễn ra từ ngày 14 đến 16 tháng giêng âm lịch. Bắt nguồn từ sự kiện Pháp xử bắn hai nhà yêu nước là Đỗ Tường Tự và Đỗ Tường Phong.

Quân đội Pháp nghiêm cấm việc làm ma chay và khóc thương. Do dịch bệnh hoành hành mùa màng, nhân dân Tầm Vu (Châu Thành, Long An) mượn cơ hội làm trai đàn để xua đuổi côn trùng phá hoại mùa màng, vừa làm lễ trai đàn cho những người đã ngã xuống vì quê hương.

Hàng năm, nhân dân huyện Châu Thành bày biện các bàn thờ cúng để hưởng ứng lễ Làm Chay ở thị trấn Tầm Vu. Năm 2015, lễ hội này được công nhận là Di sản phi vật thể cấp quốc gia.

Đồng bằng sông cửu long
Đồng bằng sông cửu long

Chương trình đào tạo nghiệp vụ Hướng dẫn du lịch mới

0
KHÓA HỌC NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Chương trình đào tạo Hướng dẫn du lịch

Thẻ Hướng dẫn viên du lịch có ý nghĩa như thế nào?

  • Là giấy thông hành
  • Rất nhiều tuyến điểm yêu cầu hướng dẫn viên phải có thẻ
  • Kinh nghiệm dù nhiều, cọ xát bao nhiêu mà không có thẻ dễ gặp trường hợp không được nhận tour do yêu cầu “phải có thẻ” của các Công ty du lịch hiện giờ.
  • Quy định ngày càng khắt khe của Tổng cục du lịch, làm thẻ sớm hạn chế tối đa những quy định rườm rà và khó khăn sau này.

Tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn là cách để các bạn trẻ có được kỹ năng và kiến thức nghề nghiệp trong thời gian ngắn; có chứng chỉ đào tạo, thuận lợi về mặt thủ tục hành chính khi bước vào thị trường lao động. Đối tượng các khóa ngắn hạn được mở rộng, không chỉ có sinh viên Du lịch mà các bạn học ngành khác cũng có thể đăng ký học.

Thông báo tuyển sinh khóa học Nghiệp vụ Hướng dẫn du lịch hoàn toàn mới theo chương trình của Tổng cục du lịch như sau:

Đối tượng tham dự:

Hướng dẫn viên Quốc tế:

Học viên là những người có bằng tốt nghiệp Cao đẳng trở lên không phải là chuyên ngành Hướng dẫn du lịch

Hướng dẫn viên Nội địa

Học viên là những người có bằng tốt nghiệp Trung cấp trở lên không phải là chuyên ngành Hướng dẫn du lịch

Chương trình đào tạo:

Phần 1: Kiến thức cơ sở

  • Địa lý Việt Nam
  • Lịch sử Việt Nam
  • Văn hóa Việt Nam
  • Lịch sử văn minh thế giới
  • Hệ thống chính trị Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến du lịch

Phần 2: Kiến thức ngành và nghiệp vụ

  • Tổng quan du lịch
  • Tuyến, điểm du lịch Việt Nam
  • Tâm lý khách du lịch
  • Giao lưu văn hóa quốc tế
  • Nghệ thuật giao tiếp và ứng xử trong hướng dẫn du lịch
  • Kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn
  • Y tế du lịch
  • Xuất nhập cảnh, hàng không và lưu trú
  • Lê tân ngoại giao

Phần 3: Thực hành kỹ năng nghiệp vụ hướng dẫn

Phần 4: Thực tế nghề nghiệp

Sau khi hoàn thành khóa học, học viên sẽ tham dự kỳ thi cấp chứng chỉ cuối khóa, những học viên đạt yêu cầu được cấp chứng chỉ NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH QUỐC TẾ/NỘI ĐỊA. Chứng chỉ có giá trị đổi thẻ Hướng dẫn viên Quốc tế/Nội địa trên toàn quốc.

Các học viên vốn không học chuyên ngành Du lịch, khi đến với các khóa học ngắn hạn phần lớn là do sở thích, giờ học sắp xếp vào buổi tối nên các bạn có thể tranh thủ thời gian rảnh của mình để học thêm một nghề mới. Nhưng cũng chính từ những khóa học chỉ từ 1,5 đến 2 tháng đó, có bạn đã phát hiện ra mình có khả năng thực sự và quyết định sẽ theo đuổi nghề mới này lâu dài.

Lớp Hướng dẫn viên Du lịch cũng làm rộng mở hơn cơ hội việc làm cho các bạn học viên. Để trở thành một “tour guide” thực sự, thẻ hành nghề là thủ tục bắt buộc. Chứng chỉ hoàn thành lớp Hướng dẫn du lịch cùng với bằng tốt nghiệp Đại học là điều kiện cần và đủ để làm thủ tục đề nghị Sở Du lịch cấp thẻ hành nghề Hướng dẫn viên du lịch.

Cách xử lý 16 tình huống hướng dẫn viên thường gặp

0

Cách xử lý 16 tình huống Hướng dẫn viên thường gặp

Xử lý tình huống dành cho hướng dẫn viên du lịch

Tình huống 1:

Hướng dẫn viên đưa đoàn khách về khách sạn đã đặt theo đúng hợp đồng nhưng khách không chịu ở và yêu cầu đổi khách sạn với lý do khách đã trả tiền rất nhiều. Anh (chị ) xử lý tình huống này như thế nào?

Giải đáp:

Bình tĩnh giải thích với khách về hợp đồng đã ký giữa hai công ty. Thuyết phục khách ở lại bằng cách giới thiệu về các dịch vụ và những ưu điểm trong khách sạn. Báo về cty để có hướng giải quyết nếu khách vẫn quyết tâm với yêu cầu đổi khách sạn.

 

Tình huống 2:

Hướng dẫn viên đưa đoàn ra sân bay để về nước, nhưng đã bỏ quên vé máy bay của khách.

Giải đáp:

Gặp trường hợp này hướng dẫn viên phải bình tĩnh. Trước tiên, gọi điện thoại về công ty để nhờ người hỗ trợ (mang vé máy bay ra nếu còn kịp giờ). Tiếp đó, làm việc trực tiếp với bộ phận hàng không tại sân bay để có hướng giải quyết. Cung cấp cho hàng không thông tin về chuyến bay, giờ bay, danh sách khách bay để đối chiếu tên khách trên máy tính của Hàng không, và chịu tiền phạt làm lại các vé máy bay tại quầy Hàng không.

Lưu ý:  Để việc đưa hoặc tiễn khách ra sân bay an toàn, trước khi xe xuất phát, hướng dẫn viên nên kiểm tra vé máy bay và nhắc nhở khách về các giấy tờ cần thiết khác để làm thủ tục sân bay (nhất là đối với khách nội địa ít đi máy bay). Nên đến sớm trước khi máy bay cất cánh hai giờ để có đủ thời gian giải quyết các trục trặc trong thủ tục Hàng không.

 

Tình huống 3:

Hướng dẫn viên đưa khách nước ngoài đến ăn chiều tại một nhà hàng ở trung tâm thành phố. Trên đường bị kẹt xe, khách đang đói mà nếu chờ thì không biết bao giờ đường mới thông.

Giải đáp:

Đây là tình huống đã xảy ra thực tế của một công ty du lịch ở thành phố Hồ Chí Minh. Anh hướng dẫn viên rất lanh lợi, đã giải quyết cho cả đoàn xuống đi bộ qua khỏi chỗ kẹt xe. Sau đó thuê xích lô chở khách đến nhà hàng. Hướng dẫn viên là người cuối cùng lên xích lô. Nhưng khi đến nhà hàng rồi, vẫn còn mấy người khách chưa đến do xích lô không biết nhà hàng ở đâu. Cuối cùng phải tung người đi tìm, mãi đến 11 giờ tối anh mới tập trung được đầy đủ khách. Những khách đi lạc đã bị một phen hoảng hốt.

Trong trường hợp này, HDV nên trao đổi với tài xế để cùng xem xét khả năng kẹt xe có thể kéo dài bao lâu. Điện thoại cho nhà hàng biết khách tới trễ. Điện thoại về cty xin ý kiến giải quyết . Trong khi chờ đợi, trấn an khách về tình trạng kẹt xe ở một số nước đang phát triển để khách hiểu và thông cảm. Tránh trường hợp đi bộ trong hoàn cảnh kẹt xe, vì không an toàn cho tính mạng cũng như tài sản của khách.

Lưu ý: Với những trường hợp kẹt xe này, nếu chỉ ăn uống tham quan, mua sắm nghĩa là không cần phải đến đúng giờ, thì HDV không nên cho khách xuống xe. Trong trường hợp bất khả kháng, phải đến nơi đúng giờ thì xin ý kiến cty cho người hỗ trợ. Cấn chuẩn bị điện thoại liên lạc, địa chỉ điểm đến và những địa chỉ cần thiết khác cho từng khách trước khi xuống xe.

Tình huống 4:

Khi làm thủ tục check-in tại sân bay, khách phát hiện bỏ quên hành lý tại khách sạn.

Giải đáp:

Trong trường hợp này, hướng dẫn nên điện thoại về khách sạn nhờ kiểm tra lại hành lý của khách. Nếu tìm ra hành lý và còn kịp giờ thì nhờ nhân viên khách sạn, hoặc nhân viên công ty du lịch, chuyển hành lý ra sân bay. Nếu đã trễ giờ thì phải xin địa chỉ cụ thể của khách hoặc điểm khách sắp đến, để gởi hành lý đến sau. Đồng thời báo nhân viên khách sạn giữ hộ những hành lý này. Hướng dẫn viên cũng cần phải qui định rõ với khách về trách nhiệm thanh toán những chi phí phát sinh như chi phí vận chuyển hành lý ra sân bay, chi phí gởi hành lý cho khách …

 

Tình huống 5 :

Anh (chị) đưa đoàn khách nước ngoài đến thăm chùa Thiên Mụ. Đò cập bến để đưa khách lên thăm chùa. Nhiều người bán hàng lưu niệm trên bến tranh nhau mời khách mua hàng.

Khách ra hiệu không mua nữa vì đã mua dưới đò. Bằng vốn từ vựng nước ngoài đủ để khách hiểu, một người bán hàng vừa đón đã mời khách mua thêm vừa giải thích với khách rằng người lái đò bán giá cao hơn vì còn phải chi hoa hồng cho hướng dẫn viên. Đoàn khách nhìn hướng dẫn viên với ánh mắt nửa tin nửa ngờ, nửa giận giữ…

Anh (chị) sẽ xử lý như thế nào nếu rơi vào tình huống trên?

Giải đáp :

Nguyên tắc: Bình tĩnh khi tình huống xảy ra. Vấn đề được đặt ra với chính hướng dẫn là Hướng dẫn viên có nhận hoa hồng không.
Nếu có một con sâu làm rầu nồi canh và bản thân hướng dẫn viên không hề nhận hoa hồng, hướng dẫn viên cần bình tĩnh và ôn tồn giải thích cho khách hiểu, đồng thời nghiêm túc yêu cầu người bán hàng đính chính sự việc.

 

Tình huống 6 :

Anh (chị) được cơ quan phân công hướng dẫn một đoàn khách đi trekking một tuần lễ ở Tây Nguyên. Cùng lúc một đơn vị bạn mời anh (chị) phụ trách một chương trình tham quan Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận trong thời gian 7 ngày với công tác phí 20 USD/ngày. Anh (chị) quyết định như thế nào?

Giải đáp:

Trên thực tế, hướng dẫn viên sẽ rơi vào tình trạng khó xử. Một bên là trách nhiệm với cơ quan, một bên là vật chất cụ thể.
Tuy nhiên không thể vì quyền lợi vật chất cá nhân mà chối từ công tác của cơ quan giao.

 

Tình huống 7:

Thực tế cho thấy có những hướng dẫn viên rất thành công khi hướng dẫn một đoàn khách quốc tế nhưng lại rất lúng túng khi hướng dẫn một đoàn khách Việt Nam. Anh (chị) cho biết nguyên nhân và hướng khắc phục sự kiện trên.

Giải đáp:

Nguyên nhân và hướng khắc phục:

Tâm lý, nhu cầu, kinh nghiệm du lịch…. của khách quốc tế và khách Việt Nam có những điểm khác nhau do ảnh hưởng của nền văn hóa, phong tục tập quán . Vì vậy, hướng dẫn viên cần tìm hiểu kỹ tâm lý, nhu cầu của đoàn.

Khi học và sử dụng ngoại ngữ, hướng dẫn viên phải tập tư duy bằng ngoại ngữ. Cấu trúc câu, việc sử dụng từ, cách phát âm…ảnh hưởng đến kỹ năng diễn đạt của hướng dẫn viên. Khi thuyết minh tiếng Việt, hướng dẫn viên cũng cần chú ý đến việc sử dụng từ, cách làm câu theo ngữ pháp và văn phong Vịêt Nam để có thể nói trôi chảy và trình bày vấn đề với tư duy tiếng Việt.

Đối với khách quốc tế, một số vấn đề có thể được giới thiệu một cách khái quát. Nhưng đối với khách Việt Nam, các nội dung cần phải sâu sắc, phong phú và chính xác. Hướng dẫn viên phải trau dồi kiến thức ở nhiều lĩnh vực.

Đoàn khách Việt Nam thường có yêu cầu sinh hoạt tập thể, hoạt náo. Hướng dẫn viên cần luyện kỹ năng hoạt náo (tổ chức những trò chơi, lửa trại…).

Điều chỉnh tâm lý cho rằng phục vụ đoàn khách Việt Nam khó lại chẳng có tiền thưởng. Trong khi hướng dẫn đoàn khách quốc tế không phức tạp bằng mà lại có tiền thưởng hậu hỉ. Hướng dẫn viên cần xác định đúng đắn một trong những vai trò hướng dẫn viên: Vai trò người phục vụ.

 

Tình huống 8 :

Đoàn khách cho rằng công ty của các anh (chị) đã giới thiệu nhiều chùa đẹp của ba miền trong chương trình tham quan, nhưng chùa nào cũng giống chùa nào. HDV sẽ làm gì để nội dung tham quan các chùa không bị đơn điệu làm khách nhàm chán?

Giải đáp:

Hướng dẫn viên cần chú ý đến những điểm sau ở mỗi ngôi chùa để chuẩn bị bày thuyết minh:
– Lịch sử hình thành của chùa.
– Những hoạt động tôn giáo, xã hội, văn hóa của ngôi chùa.
– Những chuyện tích của ngôi chùa:
Cho ví dụ (chùa Thiên Mụ, Từ Hiếu, chùa Thầy,…). Ngoài ra, có thể thêm trong bài thuyết minh nội dung về kiến trúc, hoạ tiết trang trí,…trong chùa.

 

Tình huống 9:

Theo anh (chị ), kỹ năng hoạt náo có cần thiết cho HDV khi hướng dẫn đoàn khách quốc tế không? Giải thích và chứng minh.

Giải đáp:

Hoạt náo là một trong số những yếu tố tạo nên không khí sinh động cho chuyến du lịch. Vì vậy, những câu chuyện cười, những trò chơi, câu đố… rất cần thiết để chuyến tham quan thêm hấp dẫn du khách.

 

Tình huống 10:

Có ý kiến cho rằng để thành công trong công tác hướng dẫn một đoàn khách Việt Nam, hướng dẫn viên cần hoạt náo tốt. Cho biết ý kiến của anh (chị).

Giải đáp:

Cần xác định rõ ràng kỹ năng hoạt náo không phải là yếu tố duy nhất làm nên sự thành công của hướng dẫn.

Trong tình hình khách Việt Nam đi du lịch ngày càng nhiều, hướng dẫn viên cần chú trọng đến kỹ thuật hoạt náo để đảm bảo cho sự thành công của chuyến đi. Nhu cầu vui chơi, tham gia các trò chơi tập thể,…của du khách Việt Nam là có.
HDV phải mạnh dạn, phải rèn luyện kỹ năng hoạt náo: học các trò chơi, bài hát, câu đố,..

Kỹ năng hoạt náo không chỉ là việc tổ chức các sinh hoạt, trò chơi tập thể mà còn được thể hiện qua khả năng kể chuyện, dẫn dắt câu chuyện, phát hiện những nhân tố tích cực trong đoàn khách để phối hợp tạo những nội dung sinh hoạt hấp dẫn đoàn khách.

 

Tình huống 11:

Sáng chủ nhật, anh (chị) tiễn đoàn 20 khách rời Thành Phố Hồ Chí Minh đi Nha Trang – chuyến bay VN 334 khởi hành lúc 6g20. Anh (chị) đã hẹn lái xe tại khách sạn lúc 4g45 để đưa khách ra sân bay lúc 5g. Đúng giờ hẹn, đoàn khách đã sẵn sàng nhưng xe vẫn chưa thấy đến. Anh (chị) xử lý tình huống này như thế nào?

Giải đáp:

Báo ngay cho bộ phận phụ trách xe của cơ quan để điều động xe khác.

Tình huống xấu nhất: Chia nhỏ đoàn ra đề có thể ra sân bay bằng taxi, hành lý đưa lên taxi tải.

Rút kinh nghiệm: Hẹn xe trước giờ hẹn với khách ít nhất 30 phút để kịp xoay sở nếu không thấy xe.

 

Tình huống 12:

Hãy chứng minh công tác hướng dẫn cũng là công tác tiếp thị và HDV cũng là nhân viên marketing.

Giải đáp:

Marketing lữ hành nhằm mục đích thoả mãn những nhu cầu chính đáng của du khách. Hướng dẫn viên là một trong những người cung ứng dịch vụ để thoả mãn các nhu cầu chính đáng của du khách. HDV làm tốt công tác hướng dẫn sẽ góp phần giữ vững và nâng cao uy tín của cty. Công tác tiếp thị của nhân viên marketing chỉ đạt kết quả cao nếu chất lượng các dịch vụ cung ứng tốt như đã quảng cáo.

Lấy ví dụ chứng minh.

 

Tình huống 13:

Theo chương trình, đoàn nghỉ tại Nha Trang nhiều ngày để du khách tắm biển. Một nữ du khách trong đoàn luôn yêu cầu nam HDV dạy cho cô bơi. Hoặc ngược lại một nam du khách luôn đề nghị nữ HDV dạy bơi cho anh ta. Anh (chị) trả lời thế nào với khách?

Giải đáp:

Nguyên tắc : Không làm phật lòng khách. Nhưng chỉ thoả mãn những nhu cầu nào chính đáng của khách.

Thực tế: Hướng dẫn viên tìm hiểu vì sao nữ du khách lại có yêu cầu này.

HDV nói chuyện thẳng thắn chân tình với khách, giúp khách hòa nhập với tập thể.

Giúp khách tập bơi với sự chứng kiến của mọi người. Hướng dẫn viên giữ sự nghiêm túc, chuẩn mực, cởi mở, hoà đồng.

 

Tình huống 14:

Đoàn đang thực hiện chương trình tham quan tại Daklak. Buổi sáng ngày rời Daklak đi Pleiku, lái xe của đoàn bị bệnh bất ngờ rồi chuyển qua sốt cao. Anh (chị) xử lý tình huống đột xuất và khẩn cấp này như thế nào?

Giải đáp:

– Báo khách sạn gọi ngay y, bác sĩ khám và điều trị cho lái xe (hoặc đưa vào bệnh viện – nếu có ý kiến của y, bác sĩ – nếu thấy tình trạng nguy kịch).

– Báo cho công ty để có hướng giúp đỡ lái xe.

– Liên hệ địa phương xin, thuê xe khác để đưa đoàn đi Pleiku theo chương trình.

– Trước khi rời địa phương, cùng với khách sạn niêm phong xe, gởi chìa khoá xe cho khách sạn, chờ lái xe bình phục hoặc người của công ty ra thay đưa xe về. Không quên gởi gắm lái xe cho khách sạn nhờ lưu ý chăm sóc trong khi chờ người của công ty ra.

– Động viên lái xe bị bệnh.

– Thông báo sự thay đổi về xe và lái xe để khách thông cảm và có thể chia sẻ với lái xe bị bệnh.

 

Tình huống 15:

Đoàn khách tổ chức uống rượu trên xe: nhóm đánh bài , nhóm ca hát rồi la hét và sau cùng lớn tiếng dẫn đến xô xát trên xe. Cho biết hướng giải quyết của anh (chị).

Giải đáp:

Dựa vào trưởng đoàn, những người có trách nhiệm của đoàn để can thiệp, dàn xếp cuộc xô xát. Rút kinh nghiệm trong những lần sau.

 

Tình huống 16:

Một tâm lý đang hình thành và len lỏi trong đội ngũ HDV: Ngại hướng dẫn những đoàn khách Việt Nam. Theo anh (chị) vì đâu có hiện tượng trên và hướng khắc phục.

Giải đáp:

Giải thích hiện tượng

– Dư luận trong HDV cho rằng phục vụ khách Việt Nam không có tiền thưởng khi tiễn đoàn. Công tác phí nội thấp.

– Khách Việt Nam đòi hỏi cao, đòi hỏi HDV phải phục vụ nhiều hơn.

– Khách là người Việt Nam nhiều hoặc ít đã biết về VN nên HDV không thể thuyết minh qua loa.

Hướng khắc phục.

HDV phải xác định vai trò của người phục vụ, người cung ứng dịch vụ cho khách. Khách quốc tịch nào cũng là khách hàng. Nếu có thể phục vụ tốt đoàn khách quốc tế thì HDV càng phải phục vụ khách Việt Nam tốt hơn.

HDV cần rèn luyện kỹ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, các kỹ năng hoạt náo, …

HDV phải luôn chú ý  và nắm chắn các kiến thức để đảm bảo tính chính xác, khoa học của thông tin. Nội dung thuyết minh phải sâu sắc hấp dẫn.

KHÓA HỌC

NỘI DUNG XEM NHIỀU

NEW

CAO ĐẲNG - TC - VB2